TS. Nguyễn Thị Thu Thủy
Bộ môn Lý luận Chính trị, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền. Vì vậy, Đảng ta luôn xác định công tác xây dựng đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên là một trong những vấn đề then chốt, sống còn có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại, phát triển, lãnh đạo của Đảng. Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng, bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh ngang tầm với sự lãnh đạo.
Trong thời kỳ đổi mới, do tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn biến phức tạp. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn…”[3]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng đã chỉ rõ “Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp”… [4]
Xuất phát từ những lý do trên, trong phạm vi bài viết này, tôi đề cập đến những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay để từ đó đề xuất một giải pháp cơ bản nhằm phòng, chống sự suy thoái, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
NỘI DUNG
Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành ngày 30/10/2016 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ, cụ thể:
Một là, phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.
Ba là, nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao.
Năm là, trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.
Sáu là, nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo.
Bảy là, duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác.
Tám là, tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức danh, vị trí công tác; chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn.
Chín là, vướng vào “tư duy nhiệm kỳ”, chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích. [1]
Một là, cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.
Hai là, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.
Ba là, kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.
Bốn là, mắc bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy danh hiệu”.
Năm là, quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân.
Sáu là, quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên…; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chi tiêu công quỹ tùy tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động.
Bảy là, tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.
Tám là, thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội… Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.
Chín là, đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội. [1]
Một là, phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”.
Hai là, phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”. Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
Ba là, nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Bốn là, kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Năm là, phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi “phi chính trị hoá” quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.
Sáu là, móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.
Bảy là, đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.
Tám là, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học – nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ súy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.
Chín là, có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo; giữa dân tộc và tôn giáo; giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước. [1]
2.1. Nguyên nhân khách quan
Có rất nhiều nguyên nhân khách quan tác động làm suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên hiện nay, cụ thể:
Thứ nhất, do tác động từ sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, nhất là từ khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sụp đổ, kéo theo một loạt các nước ở Đông Âu rập khuôn mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô sụp đổ theo khiến cho nhiều cán bộ, đảng viên hoang mang, dao động và mất phương hướng, mất niềm tin với sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, do tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường làm cho nhiều cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, tham ô, tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, suy đồi đạo đức, lối sống…
Thứ ba, do công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh và tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Xu thế của thời đại không thể đảo ngược là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển, song cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên... tiếp tục diễn ra ngày càng phức tạp. Các mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, sự lợi dụng các phương tiện truyền thông hiện đại bởi các thế lực phản động, thù địch để xuyên tạc, bóp méo tình hình thực tế của Việt Nam, cổ xúy cho lối sống hưởng lạc, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa, vị đồng tiền.
Thứ tư, do âm mưu, chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Diễn biến hòa bình” là chiến lược phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiến hành, nhằm xóa bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội bằng các phương thức, thủ đoạn phi vũ trang kết hợp với răn đe quân sự. Tính chất của “diễn biến hòa bình” là vô cùng thâm độc, tinh vi, nham hiểm, giấu mặt trá hình, ngụy trang dưới các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo. Tác hại của “diễn biến hòa bình” đối với hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới là vô cùng to lớn. Đối với nước ta, “diễn biến hòa bình” thực sự trở thành một nguy cơ gây mất ổn định chính trị, đe dọa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cứ đến thời gian, khi Đảng ta tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc và tổ chức học tập, quán triệt nội dung các văn kiện, nghị quyết của Đảng đến toàn thể các cấp, các ngành, toàn đảng, toàn dân thì các thế lực thù địch càng quyết liệt đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều âm mưu, thủ đoạn, hình thức, phương tiện tinh vi, xảo quyệt để chống phá nước ta trên tất cả các lĩnh vực, nhằm phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và nhằm tiến tới thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.2. Nguyên nhân chủ quan
Mặc dù Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội đã chú trọng công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ đảng viên nói riêng, quần chúng nhân dân nói chung và chỉ ra những biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ tổ chức. Song, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên hiện nay vẫn chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn. Ngoài những nguyên nhân khách quan đã nêu, thì còn có những nguyên nhân chủ quan, cụ thể như:
Thứ nhất, xét từ góc độ vĩ mô, đó là những yếu kém trong công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội trong xây dựng và giáo dục đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc đổi mới đất nước. Đây vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Thứ hai, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn còn nhiều bất cập, hiệu quả thấp. Nhiều khi lý luận chưa bắt kịp, phản ánh đúng được bản chất của những hiện tượng đang diễn trong xã hội, dẫn đến không kịp thời đưa ra được những dự báo và đề ra được những giải pháp nhằm phòng, chống hoặc khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên hiện nay.
Thứ ba, công tác quản lý cán bộ, đảng viên nhiều chỗ bị buông lỏng. Nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng chưa được chấp hành nghiêm túc. Nhiều tổ chức cơ sở Đảng còn sinh hoạt mang tính hình thức, qua loa, sơ sài và thiếu sinh hoạt chuyên đề, nhất là chuyên đề về giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và phòng, chống những quan điểm, luận điệu xuyên tạc, sai trái, chống đối Đảng, Nhà nước Việt Nam, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ tổ chức…
Thứ tư, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở một số nơi chưa được coi trọng đúng mức, hoạt động kém hiệu quả. Thậm chí, có biểu hiện xem nhẹ giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xem nhẹ giáo dục tư tưởng chính trị, pháp luật, đạo đức cách mạng.
Thứ năm, xuất phát từ chính bản thân một số bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện và lười học tập lý luận cũng như chuyên môn, nghiệp vụ; nhận thức sai lệch, bị tác động bởi các yếu tố tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trường, để chủ nghĩa cá nhân phát triển, chi phối, làm xói mòn bản chất tốt đẹp của người đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Đây là giải pháp cơ bản, giữ vai trò nền tảng trong nâng cao hiệu quả đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ tổ chức Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên cần phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình; đồng thời, phải tự thấy day dứt, hổ thẹn với những nhận thức lệch lạc và việc làm chưa đúng của mình. Khi thấy những hiện tượng tiêu cực, lạc hậu nảy sinh ở cơ quan, đơn vị mình, phải thể hiện rõ thái độ bất bình, dũng cảm đấu tranh. Mọi sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm hoặc nể nang, né tránh không dám đấu tranh cũng đồng nghĩa với việc dung túng, bao che cho tiêu cực, lạc hậu, để chúng có điều kiện nảy sinh, tồn tại và phát triển. Đối với tổ chức đảng các cấp, một mặt phải tăng cường công tác giáo dục, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về chính trị, năng lực công tác và phẩm chất đạo đức, lối sống; mặt khác, phải khắc phục triệt để những hạn chế, bất cập, nhất là trong quy hoạch, nhận xét, bổ nhiệm, đề bạt đội ngũ cán bộ hiện nay.
Nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; giữ vững bản chất cách mạng của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn của Việt Nam, khắc phục chủ quan, giáo điều, kinh viện. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng các tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí và tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
3.2. Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận chính trị và học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Để công tác giáo dục và phòng chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt hiệu quả thiết thực, cần:
Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, coi trọng nghiên khoa học, nghiên cứu lý luận chính trị. Xây dựng được các cơ chế, quy định và khuyến khích các hoạt động này diễn ra thường xuyên, liên tục, khách quan, công khai, minh bạch. Đồng thời, làm tốt công tác tuyên truyền, vận dụng linh hoạt và phù hợp với điều kiện thực tiễn các giá trị đã được tổng kết, rút ra bài học kinh nghiêm, những thành tựu của nghiên cứu và thống nhất trong lãnh đạo đến với mỗi cán bộ, đảng viên, các tổ chức xã hội và người dân.
Đổi mới hình thức, phương pháp học tập, nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết của Đảng, kết hợp chặt chẽ hình thức phổ biến, quán triệt làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn với gợi mở những vấn đề thực tế đang đặt ra với các hình thức tọa đàm, trao đổi, phát huy tìm tòi, sáng tạo của mỗi cá nhân; đồng thời, tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, các công trình, đề tài nghiên cứu khoa học để làm rõ những quan điểm, chủ trương của Đảng. Phát huy vai trò của báo chí, truyền thông đại chúng, nhất là phát thanh, truyền hình trong tuyên truyền, phổ biến đường lối, quan điểm của Đảng. Chủ động đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, phản động của các phần tử cơ hội và thế lực thù địch.
Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị gắn với vị trí công tác, công việc, sự tu dưỡng, rèn luyện hằng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên, để việc học và làm theo tấm gương của Bác đạt hiệu quả, thiết thực. Phát huy vai trò chủ động, tự giác của bản thân cán bộ, đảng viên trong việc rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và phát hiện, phòng chống suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ tổ chức.
Có thể nói, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của mọi lực lượng tham gia vào cuộc đấu tranh, phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay. Song, trước hết, cần phải phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy Đảng, cơ quan, đơn vị. Theo đó, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải có quyết tâm chính trị cao, xác định đúng vai trò, vị trí, trách nhiệm, gương mẫu trong việc chấp hành đường lối, chỉ thị, hướng dẫn, quy chế, quy định của Đảng và Nhà nước; có tác phong làm việc khoa học, hiệu quả, sâu sát; có thái độ đúng mực trong giao tiếp, ứng xử, luôn lắng nghe, tiếp thu những ý kiến xác đáng của cấp dưới và nhân dân để điều chỉnh, hoàn thiện bản thân. Đồng thời, phải gắn vai trò, trách nhiệm của cán bộ chủ trì, người đứng đầu đối với các hoạt động của cơ quan, đơn vị, nhất là những hậu quả do sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống gây ra. Có như vậy, việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống mới đạt được hiệu quả và có tác dụng động viên, khích lệ, khuyến khích cán bộ, đảng viên khác học tập, làm theo.
Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở; nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên. Đảng viên dù giữ cương vị, trọng trách nào cũng tham gia sinh hoạt và chịu sự quản lý, giáo dục, rèn luyện của chi bộ. Cấp ủy cơ sở là hạt nhân lãnh đạo, trung tâm đoàn kết, đại biểu cho trí tuệ, ý chí của tổ chức cơ sở đảng; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng phụ thuộc trước hết và chủ yếu vào số lượng, cơ cấu của cấp ủy, phẩm chất, năng lực của các cấp ủy viên. Vì vậy, để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, trước hết phải chăm lo củng cố, kiện toàn cấp ủy cơ sở có đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, chất lượng cao, bảo đảm tính kế thừa, phát triển, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện và chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình tổ chức cơ sở Đảng.
Công tác chuẩn bị nhân, bầu cử, đề cử, ứng cử, giới thiệu nhân sự cấp ủy cơ sở phải thực hiện đúng nguyên tắc, quy chế, quy định của Đảng về công tác cán bộ, phải căn cứ vào quy hoạch cán bộ đã được cấp ủy cấp trên phê chuẩn, đồng thời chú trọng phát hiện, giới thiệu bổ sung những cán bộ trẻ có đức, có tài, có năng lực lãnh đạo, quản lý để bầu tham gia cấp ủy mới. Kết hợp chặt chẽ kiện toàn cấp ủy các cấp với lựa chọn, bố trí cán bộ chủ trì; chú trọng lựa chọn, bố trí nhân sự cán bộ lãnh đạo chủ chốt của cấp ủy phải tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, trí tuệ, đạo đức, uy tín, năng lực lãnh đạo, quản lý, được cán bộ, đảng viên và quần chúng yêu mến, tín nhiệm.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, cần chú trọng bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác của đội ngũ cán bộ chủ trì ở cơ sở. Tập trung bồi dưỡng cho người đứng đầu đơn vị, địa phương và bí thư cấp ủy cơ sở, bí thư chi bộ nắm vững những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên - đây là cơ sở lý luận và phương pháp luận để tổ chức cơ sở đảng đề ra chủ trương, nghị quyết lãnh đạo đúng đắn, khả thi.
Tập trung bồi dưỡng nâng cao năng lực nghiên cứu, quán triệt, cụ thể hoá, vận dụng đúng đắn, sáng tạo các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; thường xuyên cập nhật những vấn đề lý luận và thực tiễn của đất nước, của địa phương, âm mưu thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch để nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Chăm lo xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ tổ chức cơ sở Đảng làm hạt nhân để củng cố, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong từng cơ quan, đơn vị. Kết hợp chặt chẽ giữa bồi dưỡng nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực thực tiễn với bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật cho cán bộ chủ trì và cấp ủy viên. Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu trong công tác và ý thức tự giác tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác của cán bộ chủ trì các cấp.
Đây là giải pháp rất quan trọng để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đảng viên hiện nay. Cấp ủy cơ sở và các chi bộ thường xuyên quán triệt, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, trước hết là các nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình. Thực hiện nghiêm quy chế làm việc của cấp ủy, ủy ban kiểm tra và quy chế lãnh đạo các mặt công tác trọng yếu (công tác cán bộ, tài chính, kế hoạch đầu tư, xây dựng cơ bản). Giải quyết tốt mối quan hệ tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách, thực sự dân chủ, phát huy trí tuệ của tập thể cấp ủy, chi bộ và phát huy vai trò trách nhiệm dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của người đứng đầu; kiên quyết khắc phục các biểu hiện dân chủ hình thức, độc đoán chuyên quyền, cá nhân chủ nghĩa, lợi dụng danh nghĩa tập thể để trục lợi hoặc tranh công, đổ lỗi...
Quán triệt, thực hiện nghiêm Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các chỉ thị, quy định của Bộ Chính trị và Ban Bí thư về sinh hoạt Đảng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, cán bộ, đảng viên về sự cần thiết và yêu cầu nâng cao chất lượng, sinh hoạt Đảng. Đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tập trung lãnh đạo, giải quyết những vấn đề thiết thực, cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm; xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm, giải quyết những vấn đề nổi cộm, bức xúc, khắc phục khâu yếu, mặt yếu của cơ quan, đơn vị và nguyện vọng chính đáng của quần chúng, cán bộ, đảng viên. Nghị quyết lãnh đạo của chi bộ phải ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, có tính khả thi cao… Sau khi có nghị quyết, cấp ủy, cán bộ chủ trì phải cụ thể hóa xây dựng kế hoạch, chương trình hành động và chú trọng khâu kiểm tra, giám sát quá trình triển khai tổ chức, thực hiện; kịp thời, phát hiện và có giải pháp xử lý, hiệu quả những vấn đề nảy sinh.
Bí thư cấp ủy, bí thư chi bộ người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải gương mẫu, đề cao trách nhiệm xây dựng Đảng bộ, Chi bộ trong sạch, vững mạnh; gương mẫu trong chấp hành nguyên tắc, chế độ sinh hoạt đảng, đổi mới phương pháp tác phong công tác theo hướng giữ vững tính đảng, tính nguyên tắc, dân chủ, sát thực tế, nói đi đôi với làm, lắng nghe, tiếp thu ý kiến đóng góp và giải đáp kiến nghị của cán bộ, đảng viên, quần chúng.
Hiện nay, các thế lực thù địch bên ngoài câu kết với các phần tử cơ hội phản động trong nước ráo riết đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình” chống phá quyết liệt trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong. Mục đích của chúng là xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hướng lái đất nước đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để thực hiện được âm mưu thâm độc đó, các thế lực thù địch đã đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo, bịa đặt phủ nhận thành quả của cách mạng Việt Nam; hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước ta; bôi đen hiện thực, gieo rắc hoài nghi; kích động, chia rẽ nội bộ… làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên hoài nghi, dao động, mất niềm tin và từng bước phai nhạt lý tưởng cách mạng, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; thậm chí có người đã “tự chuyển hóa” trở thành những phần tử chống đối. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái”.
Cấp ủy cơ sở và các chi bộ chủ động nắm vững tình hình, tăng cường công tác dự báo tư tưởng, lãnh đạo, chỉ đạo phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng tạo thành sức mạnh tổng hợp đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Định kỳ tổ chức thông tin thời sự về tình hình trong nước và quốc tế, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến cho cán bộ, đảng viên nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Chủ động đấu tranh vạch trần bản chất phản động, phản khoa học, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch. Đồng thời, phê phán, lên án những nhận thức và hành vi biểu hiện sai trái, tiêu cực, lạc hậu, không để cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Các tổ chức cơ sở đảng cần khách quan, trung thực, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật; không giấu giếm hạn chế, khuyết điểm, kiên trì, kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình; không chủ quan nóng vội, cực đoan; giữ đúng nguyên tắc, đề cao cảnh giác không để các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội lợi dụng kích động, xuyên tạc, đả kích, gây chia rẽ nội bộ, lôi kéo quần chúng.
Cấp ủy cơ sở và các chi bộ tăng cường kiểm tra, giám sát đảng viên về phẩm chất đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật và tính tiên phong gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ. Tập trung kiểm tra, giám sát đảng viên là cấp ủy viên các cấp, cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp trên quản lý sinh hoạt ở các chi bộ. Qua kiểm tra, giám sát kịp thời phát huy ưu điểm, uốn nắn, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên. Chủ động kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm kỷ luật, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm ngay từ lúc mới manh nha. Thực hiện nghiêm quy chế dân chủ ở cơ sở, công khai, minh bạch các chế độ, chính sách và phát huy vai trò giám sát của quần chúng đối với hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên. Bảo vệ, khuyến khích các tổ chức và cá nhân tích cực phát hiện, kiên quyết đấu tranh với các hành vi tham nhũng, tiêu cực trong cơ quan, đơn vị. Kiên quyết xử lý nghiêm minh những người suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nói, viết, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật Nhà nước để răn đe, giáo dục đảng viên.
Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của nhân dân. Bên cạnh phản biện của các cấp Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, cần tạo nên những diễn đàn trao đổi trên báo chí, thông tin đại chúng nhằm thu hút sự tham gia thảo luận đóng góp ý kiến phản biện của các tầng lớp nhân dân về các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là những chủ trương, chính sách có liên quan, tác động đến đông đảo nhân dân. Để phản biện xã hội phát huy được vai trò tích cực, đòi hỏi phải có định hướng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bám sát mục tiêu của phản biện xã hội. Tăng cường cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đối với hoạt động của các tổ chức, cơ quan trong hệ thống chính trị. Phát huy vai trò của nhân dân trong việc giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, kể cả nơi công tác và nơi cư trú.
Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là một vấn đề phức tạp mà nguyên nhân sâu xa, chủ yếu nhất là bắt nguồn từ việc nhiều tổ chức, cơ sở Đảng chưa chú trọng đến công tác quản lý, giáo dục đến cán bộ, đảng viên và xuất phát tự chính sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên… Vì vậy, thực hiện đồng bộ 07 giải pháp cơ bản đã nêu, chúng ta sẽ khắc phục và phòng, chống được sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ tổ chức, cơ sở Đảng và góp phần làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, tăng sức chiến đấu và tạo dựng được lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2016), Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016, Hà Nội, tr.5-6-7.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2021), Toàn văn kết luận Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.158.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, 2, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.91-92.
5. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), NXB. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.172.
6. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Giáo dục Quốc phòng, An ninh (dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), NXB. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.157-174.