Phát huy bài học sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng tháng tám năm 1945 vào công cuộc đổi mới hiện nay

Th.s Ngô Thị Phương Thảo

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với tầm vóc vĩ đại trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trên con đường đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 77 năm nhìn lại sự kiện lịch sử vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc cho đến ngày nay vẫn còn vẹn nguyên giá trị.

1. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong cách mạng tháng Tám năm 1945

Từ chủ trương, chính sách đúng đắn phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và được bổ sung, hoàn thiện xuyên suốt trong quá trình chuẩn bị để tập hợp lực lượng cho Cách mạng Tháng Tám và được thể hiện rõ nét nhất là quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh theo Nghị quyết Hội nghị Trung Ương lần thứ Tám (tháng 5 - 1941). Ngày 25 - 10 - 1941, Mặt trận Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc. Tuyên ngôn của Mặt trận Việt Minh “chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn” [1]; đồng thời khẳng định: “Coi quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy, Việt Minh sẵn sàng giơ tay đón tiếp những cá nhân hay đoàn thể, không cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia, miễn thành thực muốn đánh đuổi Nhật, Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do và độc lập” [2]. Mặt trận Việt Minh đề ra một hệ thống các chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa - giáo dục, xã hội, ngoại giao; những chính sách cụ thể đối với các tầng lớp công nhân, nông dân, binh lính, trí thức, công chức, học sinh, phụ nữ, tư sản, địa chủ, Những chính sách trên, được thể hiện ở bốn mươi bốn điểm trong Chương trình của Mặt trận Việt Minh. Tinh thần cơ bản của chương trình này là “cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước: 1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; 2. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do” [3]. Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh được đúc kết thành 10 chính sách lớn được thực hiện ở khu giải phóng Việt Bắc và được Đại hội Quốc dân Tân Trào thông qua tháng 8 - 1945, trở thành chính sách cơ bản sau này của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Cái tên Việt Nam độc lập đồng minh rất rõ rệt, thiết thực và hợp với nguyện vọng toàn dân. Thêm vào đó, chương trình giản đơn, thiết thực mà đầy đủ của Mặt trận gồm có 10 điểm như bài ca tuyên truyền đã kể: Có mười chính sách bày ra, Một là ích quốc, hai là lợi dân” [4]. Đó chính là cơ sở quan trọng để đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng dân tộc.

Nhận thức đúng và đầy đủ về vị trí của các giai cấp, các tầng lớp trong quá trình xây dựng Mặt trận Việt Minh, từ cuối năm 1941 đến năm 1942, các hội Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Quân nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Tự vệ cứu quốc đã được thành lập. Các tổ chức phản đế đều được chuyển thành các tổ chức cứu quốc. Mặt trận Việt Minh phát triển mạnh mẽ ở nhiều vùng nông thôn và thị xã, không những có cơ sở rộng khắp ở trong nước mà còn có cơ sở trong Việt kiều ở nước ngoài. Những người Việt kiều yêu nước ở Vân Nam (Trung Quốc) thành lập Hội giải phóng Việt Nam. Cuối năm 1942, sau khi đã liên lạc với lực lượng cách mạng trong nước, Hội giải phóng Việt Nam được coi như một bộ phận của Mặt trận Việt Minh. Sang năm 1943, trước sự chuyển biến mới về thời cuộc, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp ở Võng La, quyết định mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị nhận định: “Ở Đông Dương hiện nay thiếu một phong trào cách mạng quốc gia tư sản và phong trào thanh niên học sinh. Do đó, cuộc vận động cách mạng ở Đông Dương vẫn hẹp hòi, có tính cách công nông hơn là tính cách toàn dân tộc” [5]. Hội nghị đề ra chủ trương liên minh với tất cả các đảng phái, các nhóm yêu nước ở trong và ngoài chưa gia nhập Mặt trận Việt Minh, đẩy mạnh công tác vận động công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ, tư sản, địa chủ yêu nước, các dân tộc thiểu số, Hoa kiều, lập ra Hội Văn hóa cứu quốc ở các thành phố nhằm đoàn kết các nhà trí thức và các nhà văn hóa.

Vào đầu năm 1945, ngày 12-3-1945, đúng ba ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương đã ra Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Đảng ta đã kịp thời chỉ rõ kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương sau cuộc đảo chính là phát - xít Nhật và quyết định thay khẩu hiệu “Đánh đuổi phát - xít Nhật - Pháp’’ bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát - xít Nhật”. Chỉ thị cũng nhấn mạnh đến việc phải mở rộng cơ sở của Mặt trận Việt Minh, nhằm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng nhân dân vào cao trào kháng Nhật cứu nước. Đó chính là thực hiện chính sách đoàn kết, phân hóa hàng ngũ kẻ thù, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ. Một tháng sau khi Chỉ thị ra đời, ngày 12-4-1945, Mặt trận Việt Minh ra lời kêu gọi Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị quan chức ái quốc Việt Nam và Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị huynh thứ ái quốc. Nội dung các lời kêu gọi ấy đã góp phần đẩy nhanh quá trình phân hóa và tranh thủ một bộ phận vào lúc cách mạng bùng nổ. Khẩu hiệu “Phá kho thóc giải quyết nạn đói’’ đã đáp ứng nguyện vọng khẩn thiết, cấp bách trước sự sinh tồn của đại đa số nhân dân, là một nghệ thuật phát động quần chúng, hình thức đấu tranh thích hợp nhất lúc bấy giờ để đưa hàng triệu quần chúng đi từ hình thức đấu tranh thấp đến hình thức đấu tranh cao, từ đấu tranh cho quyền lợi kinh tế hằng ngày đến giác ngộ chính trị. Chính vì vậy, phong trào phá kho thóc, giải quyết nạn đói của quần chúng, không chỉ có ý nghĩa kinh tế trước mắt, mà còn có nội dung chính trị sâu sắc. “Khẩu hiệu này đưa ra giữa lúc nạn đói khủng khiếp đang diễn ra ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, đáp ứng nguyện vọng cấp bách nhất của quần chúng, do đó, đã thổi bùng ngọn lửa căm thù trong đông đảo nhân dân và phát động quần chúng vùng dậy với khí thế cách mạng hừng hực tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền’’ [6].

Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam. Toàn dân nổi dậy, cả nước đồng lòng đứng lên. Từ chiến khu về đồng bằng, từ nông thôn đến thành thị, rồi cả thành thị cùng nông thôn nhất tề nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là minh chứng sinh động về sức mạnh đồng thuận của cả dân tộc Việt Nam, khi được Đảng khơi dậy, tổ chức tập hợp với tinh thần tự lực, tự cường. Thắng lợi đó đã khẳng định trong thực tế lòng tin tuyệt đối của quần chúng nhân dân vào đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam

2. Bài học phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay

 Thực tiễn sinh động phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đã để lại bài học sâu sắc đối với cách mạng Việt Nam, đến nay, bài học ấy vẫn còn nguyên giá trị, vẫn “là vấn đề sống còn” của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới. Cách mạng Việt Nam 77 năm qua là hiện thực sinh động chứng tỏ: phát huy sức mạnh toàn dân tộc là đường lối chiến lược cơ bản, lâu dài của cách mạng, là sự tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối, quan điểm của Đảng trong điều kiện lịch sử mới.

Qua 30 năm tiến hành kháng chiến chống ngoại xâm (1945 - 1975), truyền thống quý báu ấy đã được nâng lên tầm cao mới, trở thành động lực và sức mạnh chủ yếu của dân tộc ta, là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đưa đến những thắng lợi vĩ đại của cách mạng nước ta từ năm 1930 đến nay.

Vào những năm 80 của thế kỷ XX, đứng trước tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, đổi mới trở thành yêu cầu có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh dân tộc. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã hoạch định đường lối đổi mới đất nước, chỉ rõ bốn bài học kinh nghiệm lớn, trong đó bài học đầu tiên là: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc’’ [7], xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tám đã ra Nghị quyết 8b (ngày 27-3-1990) về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, trong đó nhấn mạnh quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Đến Đại hội VII của Đảng (năm 1991), lần đầu tiên trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định lấy khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Điều đó thể hiện: Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò của các giai tầng trong xã hội, nhất là của tầng lớp trí thức đối với sự nghiệp cách mạng nước ta trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ và kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Cương lĩnh (năm 1991) nêu năm bài học lớn được rút ra từ thực tiễn cách mạng, trong đó có bài học: “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử” [8] và “không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế” [9]. Đại hội VII của Đảng chỉ rõ: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Quan hệ giữa Đảng với nhân dân bao giờ cũng là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng. Nguồn sức mạnh làm nên thắng lợi của chúng ta chính là ở chỗ Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân” [10]; dân chủ “vừa là một mục tiêu vừa là một động lực của công cuộc đổi mới xã hội ta” [11].

Tổng kết 10 năm đổi mới, Đại hội VIII của Đảng đã rút ra một trong những nguyên nhân trọng yếu dẫn đến thành công của Đảng trong hoạch định đường lối và thực hiện đường lối đổi mới: Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay.

Đại hội VIII tiếp tục khẳng định tinh thần của Đại hội VII và nêu cao phương châm: Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng, đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay đang định cư ở nước ngoài; có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

Đại hội IX có bước phát triển cụ thể hơn nữa về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân: “Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài”; “lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng”; “trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội” [12]. Như vậy, trong thời kỳ mới, quan điểm nhất quán của Đảng ta là: đại đoàn kết toàn dân, đồng thuận mọi giai tầng, trên cơ sở giải quyết hài hòa các lợi ích, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của toàn xã hội, là động lực chủ yếu để phát triển đất nước trong giai đoạn cách
mạng mới.

Nhằm cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết Đại hội IX, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX về Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ thực tiễn của công cuộc đổi mới, tư duy về đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta được phát triển lên một bước mới. Cụm từ “Đại đoàn kết toàn dân” được bổ sung, hoàn chỉnh thành “Đại đoàn kết toàn dân tộc” với ý nghĩa mở rộng đại đoàn kết, đoàn kết không chỉ đối với nhân dân ta ở trong nước mà còn với cả cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Từ tư duy đổi mới về vai trò của nhân dân, về vấn đề dân tộc trong thời kỳ mới, Đại hội X của Đảng khẳng định: “đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [13].

Sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: phát huy sức mạnh toàn dân tộc là thành tố thứ hai, sau thành tố về tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đây chính là hai thành tố quan trọng, quyết định thực hiện thành công những nhiệm vụ căn cốt nhất của toàn Đảng và toàn dân ta trong nhiệm kỳ 2011 - 2015, đó là: đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một thành tố được nêu trong chủ đề của Đại hội IX và Đại hội X, nay khẳng định lại không chỉ để nhấn mạnh mà còn nhằm làm sáng tỏ hơn bản chất và nội dung của vấn đề thông qua thực tiễn đổi mới. Sức mạnh toàn dân tộc là sức mạnh của cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; sức mạnh của các thành phần kinh tế, các lực lượng chính trị, xã hội, các dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân trong nước và cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài có cùng “mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung… để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”[14].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng khẳng định: “phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc” [15], “bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển… Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân” [16], nhằm phát huy tối đa sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc đổi mới đất nước, vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là sự kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, thể hiện sự nhất quán kiên định tư tưởng chính trị và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh - tư tưởng chính trị và phương pháp cách mạng dựa trên sự bố trí các lực lượng xã hội, trên cơ sở vận dụng nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp, quan điểm dân tộc vào thực tiễn Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân”.

Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám, với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, trước những vận hội mới, nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức đặt ra trước yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước, hơn bao giờ hết, Đảng cần tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và sự đồng thuận của toàn xã hội trong tiến trình xây đựng đất nước hiện nay. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng cần có những quyết sách nhằm động viên và tổ chức mọi tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc, đưa đất nước vượt qua thách thức.

Với những thành quả cách mạng Việt Nam đã đạt được, dưới sự lãnh đạo đầy bản lĩnh, trí tuệ của một chính Đảng Cộng sản được lý luận Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi rọi, với sự quản lý điều hành năng động, sáng tạo của Nhà nước cách mạng Việt Nam, với tài năng, trí thông minh, đức tính cần cù, ý chí và khát vọng vươn lên mãnh liệt của nhân dân ta, tiếp tục vận dụng bài học phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh lịch sử mới, chúng ta có đầy đủ cơ sở để vững tin vào sự hiện thực hóa mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1], [2], [3], [5], Văn kiện Đảng (2000), Toàn tập, Tập 7 (1940 - 1945), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.461, tr.470, tr.290

[4] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.158

[6]. Lê Duẩn (1976), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.461

[7].Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1987), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 213

[8], [9] Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi mới, Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 311

[10], [11]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr. 124, tr.125.

[12] [14]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 86, tr.239 - 240

[13]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 40 - 41

[15],[16]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 165, tr.170

 

 

 

Tin mới hơn

Tin cũ hơn