ĐẶT LỢI ÍCH QUỐC GIA DÂN TỘC LÊN HÀNG ĐẦU – BÀI HỌC TRONG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM HIỆN NAY

                                                                            TS. Ngô Thị Phương Thảo
A. MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, trước tình hình mới của đất nước và thế giới đã và đang đặt ra cho nước ta nhiều cơ hội và thách thức, bài học kinh nghiệm: Đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên hàng đầu có ý nghĩa thời sự hơn bao giờ hết. Đây chính là cơ sở để Đảng ta tập hợp và phát huy nguồn lực toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
B. NỘI DUNG
Nhìn từ lịch sử, “dựng nước đi đôi với giữ nước” là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam. Trải qua các giai đoạn cách mạng giành và giữ vững độc lập dân tộc là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Đây là nhiệm số một của dân tộc đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, đã và đang tạo ra cả thời cơ và thách thức không nhỏ.
Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh. Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á đã trở thành một cộng đồng, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa - kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng quan trọng; đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông còn diễn ra gay gắt.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Nước ta sẽ thực hiện đầy đủ các cam kết trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước. Thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn. 
Tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ "diễn biến hoà bình" của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,...
Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ, khó khăn, thách thức đan xem, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Vì vậy, việc xác định và đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên hàng đầu là yêu cầu cấp thiết hơn bao giờ hết đối với sự nghiệp đổi mới, ổn định và phát triển ở nước ta.
Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xác định lợi ích tối quan trọng và căn cốt nhất của cách mạng mà toàn thể đất nước Việt Nam hướng tới và bảo vệ đó là: độc lập dân tộc. Lấy mục tiêu độc lập dân tộc là mục tiêu hàng đầu, Hồ Chí Minh đã tạo được sự đồng thuận trong xã hội, ủng hộ của nhân dân nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, giữ vững thành quả cách mạng. Sau này, tướng Morlière (Pháp) đã nhận định: “chúng ta không chỉ chiến đấu chống lại Việt Minh mà cả một đa số rất đông đảo, nếu không muốn nói là tất cả dân chúng tập hợp chung quanh mục tiêu “độc lập”. Rất nhiều người Annam (chỉ người Việt) đối nghịch hoặc thờ ơ với Việt Minh nhưng tinh thần dân tộc của họ, lòng yêu nước của họ và cả đầu óc bài ngoại âm ỉ ở châu Á đã không chút do dự tập họp dưới lá cờ Việt Minh, đằng sau chủ tịch Hồ Chí Minh - biểu tượng thiêng liêng của dân tộc Việt Nam” [4, tr.316-317]. Lòng yêu nước, khát vọng tự do và ý chí độc lập mà Hồ Chí Minh khơi gợi trở thành điểm chung giúp những con người An Nam bỏ qua những xung khắc cá nhân nhỏ lẻ đế kết nối lại với nhau, chung một con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã nhìn thấy những lợi ích chung cho toàn dân tộc, những mục tiêu mà Hồ Chí Minh đề ra cũng chính là nguyện vọng của mỗi người dân. Hồ Chí Minh đã nói lên tiếng nói của người dân, thực hiện những hành vi thể hiện sức mạnh vô úy của toàn dân. Đây hoàn toàn hợp quy luật, hợp lôgíc phát triển của lịch sử cũng như truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. 
Lợi ích quốc gia dân tộc là tối cao, là yếu tố hàng đầu cần phải đảm bảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Tất cả những vấn đề đổi mới, chuyển biến trong tư duy và hoạt động thực tiễn đều dựa trên lợi ích của toàn dân tộc. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là, phải căn cứ vào tình hình khu vực và quốc tế, vào tương quan lực lượng, từ đó xác định mục tiêu cho phù hợp và sát thực với từng giai đoạn lịch sử cụ thể nhằm bảo đảm ở mức cao nhất lợi ích của quốc gia dân tộc. Xuyên suốt những giai đoạn cách mạng, tư duy của Đảng về lợi ích quốc gia – dân tộc có sự kết thừa, phát huy, phù hợp với bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước. 
Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lợi ích quốc gia dân tộc luôn là mục tiêu phấn đấu của Đảng. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI (1988) đã khẳng định: “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế” [5, tr.7]. Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 2-1992), Đảng ta đã đề ra một trong bốn phương châm xử lý các vấn đề quốc tế đó là “bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính”. Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX (2003) nhấn mạnh việc bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc là một trong những mục tiêu then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc khi khẳng định: “kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của Tổ quốc” [1, tr.46-47]. Tuy nhiên, phải đến Đại hội lần thứ XI (2011) của Đảng, mục tiêu về lợi ích quốc gia – dân tộc lần đầu tiên chính thức khẳng định trong Cương lĩnh và báo cáo chính trị của Đại hội. Đến Đại hội lần thứ XII (2015) của Đảng xác định: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi…” [2, tr.153]. Đại hội lần thứ XIII của Đảng (tháng 3-2021) khẳng định: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi” [3, tr.110].
Giai đoạn hiện nay, trong khi thế giới đã bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ XXI với những chuyển biến sâu sắc, mau lẹ và khó lường. Ở trong nước, sau hơn 35 năm đổi mới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta đứng trước thời cơ, vận hội, thuận lợi và không ít nguy cơ, thách thức. Do vậy, trong quá trình tham gia hội nhập quốc tế, nhận thức về lợi ích quốc gia - dân tộc cần phải đầy đủ, toàn diện hơn. Đồng thời, đây cũng là cơ sở, tiền đề quan trọng để xác lập, định hướng chủ trương, chính sách đối nội, đối ngoại phù hợp, đúng đắn để “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc.
Vấn đề lợi ích quốc gia – dân tộc của Việt Nam có thể được nội hàm hóa, đó là: bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền và an ninh quốc gia - đây là nội dung cốt lõi của lợi ích quốc gia trong giai đoạn hiện nay; thúc đẩy phát triển đất nước toàn diện và bền vững; nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước. 
Thứ nhất, bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền và an ninh quốc gia: là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời của đất nước gắn liền với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bao hàm cả việc bảo hộ lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân và doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài. Lợi ích quốc gia – dân tộc ở nội hàm này liên quan đến đất nước và con người Việt Nam, đến hệ thống chính trị và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đến vai trò lãnh đạo đất nước và quan điểm, đường lối chính sách của Đảng. Đó cũng là quyền của người Việt Nam tự quyết định vận mệnh và tương lai của mình, tự quyết định lựa chọn đảng chính trị lãnh đạo đất nước, hệ thống chính trị và chế độ xã hội muốn xây dựng, ý thức hệ và hệ giá trị muốn theo đuổi. Lợi ích quốc gia – dân tộc phản ánh truyền thống lịch sử và khát vọng của cả dân tộc Việt Nam trong suốt lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước từ trước tới nay và trải qua những giai đoạn cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thực tế thời gian qua cho thấy, các nước lớn luôn tìm mọi cách chi phối trật tự quốc tế, cũng đồng nghĩa với việc các nước lớn thường tác động, gây ảnh hưởng tới các nước nhỏ (từ hình thức gây sức ép gián tiếp đến can thiệp trực tiếp), hi sinh lợi ích của các nước nhỏ để thoả mãn lợi ích của các nước lớn. Vì vậy, việc giữ vững độc lập, quyền tự quyết (lợi ích cao nhất) của các nước nhỏ, trong đó có Việt Nam, là một thách thức lớn. Hơn thế, trong xu thế toàn cầu hóa, nếu chấp nhận một thực tế là thế giới ngày càng phẳng và trở nên lệ thuộc lẫn nhau, thì khả năng giữ độc lập của một nước lại càng trở nên khó khăn hơn. Các xu hướng phi quốc gia, các hiện tượng một số quốc gia chấp nhận từ bỏ, hoặc điều chỉnh hành vi của mình để thoả mãn các đối tác kinh tế, thậm chí tự nguyện bỏ bớt chủ quyền quốc gia trên một số mặt quan trọng như chính sách nhập cư, tài chính tiền tệ, quân sự, ngoại giao... đã xuất hiện. Bên cạnh đó, các cuộc tranh luận về chủ quyền quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu hoá đã cho thấy các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển đều gặp phải những thách thức về quyền tự chủ khi phải đương đầu với các công ty đa quốc gia. Vì vậy, giữ vững độc lập dân tộc luôn là đòi hỏi chính đáng và bức thiết đối với Việt Nam trong quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế.
Thứ hai, thúc đẩy phát triển đất nước toàn diện và bền vững trên cơ sở đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, về quốc phòng - an ninh, đối ngoại. Trong đó, lợi ích kinh tế là trung tâm của mọi lợi ích, được hình thành từ các quá trình kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Lợi ích chính trị gắn liền với sự ổn định, vững mạnh và sự lãnh đạo, quản lý, vận hành hiệu lực, hiệu quả của thể chế chính trị được xác lập trong Hiến pháp. Lợi ích văn hóa góp phần tạo ra những giá trị làm nền tảng tinh thần của xã hội. Lợi ích quốc phòng - an ninh, đối ngoại gắn với độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, sự ổn định chính trị và môi trường hòa bình, ổn định của đất nước là cơ sở, nền tảng để bảo vệ và phát huy, phát triển, mở rộng lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội.
 Lợi ích dân tộc đòi hỏi khơi dậy và phát huy mọi nguồn lực ở bên trong đất nước cho phát triển kinh tế – xã hội năng động, liên tục và bền vững, đồng thời tranh thủ, khai thác và tận dụng mọi nguồn lực từ bên ngoài phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển ấy. Lợi ích dân tộc bao hàm mục tiêu tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để thực hiện thành công công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong mọi chiều hướng biến động của thế giới, phát huy khát vọng toàn dân tộc để hiện thức hóa tầm nhìn và khát vọng phát triển của Việt Nam đến năm 2025, năm 2030 và năm 2045.
Thứ ba, nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của đất nước là nâng cao sức mạnh mềm và giá trị bản sắc của Việt Nam trên trường quốc tế. Vị thế và uy tín quốc tế của đất nước thể hiện cụ thể ở sự coi trọng và tin cậy của thế giới dành cho đất nước. Sự coi trọng và tin cậy ấy là nền tảng và tiền đề để Việt Nam hội nhập quốc tế; đồng thời, tranh thủ sự hợp tác, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam. Vị thế và uy tín quốc tế, đóng góp mang tính quyết định vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia cũng như thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc phát triển đất nước toàn diện và bền vững, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ.
Ba nội hàm này tuy có riêng biệt về bản chất nhưng hội tụ thành thể thống nhất và hài hoà trong lợi ích quốc gia – dân tộc của đất nước ta trong giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế. Chúng bổ sung cho nhau và chi phối lẫn nhau, tạo nên tính tổng thể và hoàn chỉnh của lợi ích quốc gia – dân tộc. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, phương châm này tiếp tục là định hướng soi đường cho chúng ta trong giai đoạn tới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định điều này ở phần “quan điểm chỉ đạo”, cho thấy sự thống nhất nhận thức cao nhất. Mọi phương hướng, nhiệm vụ trong giai đoạn tới đều vì lợi ích quốc gia – dân tộc và mọi lợi ích khác đều phải phục tùng lợi ích quốc gia – dân tộc.
Cần nhận thức được, trong môi trường quốc tế với sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa cường quyền, Đảng đã khẳng định Việt Nam không theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hòi, mà thúc đẩy lợi ích của mình trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Các nguyên tắc này bao gồm: bình đẳng về chủ quyền quốc gia; tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị quốc gia; không đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; không can thiệp công việc nội bộ các nước; tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế và luật pháp quốc tế; giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình.
Đó là những nguyên tắc phổ quát và tiến bộ mà toàn thể nhân loại đang nỗ lực gìn giữ. Trong hội nhập quốc tế, mọi quốc gia, tổ chức, cá nhân dù bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc mình, cũng cần phải chấp hành nghiêm thông lệ quốc tế, các nguyên tắc, định chế của các tổ chức quốc tế trong quan hệ đối ngoại; tránh những tư tưởng, hành động vì lợi ích cục bộ, dân tộc cực đoan, bất chấp luật pháp quốc tế. Việt Nam tôn trọng và bảo vệ những nguyên tắc này, cũng là bảo vệ lợi ích của chính mình và bảo vệ cho cái chung. Trong những thập niên qua, chủ trương xuyên suốt và sự chỉ đạo về đối ngoại nhất quán của Đảng trong giải quyết các vấn đề mâu thuẫn lợi ích, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và những trọng trách quốc tế mà Việt Nam đã đảm đương xuất sắc trong thời gian qua chính là minh chứng rõ nét nhất cho điều này.
C. KẾT LUẬN
Như vậy, trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam, lợi ích quốc gia – dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là phương châm và động lực phát triển. Sau 35 năm đổi mới, tư duy về lợi ích quốc gia – dân tộc của Đảng đã có những bước tiến lớn quan trọng và ngày càng toàn diện hơn. Những bước tiến lớn này là kết quả của tư duy đúng đắn về lợi ích quốc gia – dân tộc và của việc kịp thời đổi mới tư duy về lợi ích quốc gia – dân tộc trong từng thời kỳ phát triển của đất nước và trước những biến động của thế giới. Cụ thể ở đây là xác định đúng lợi ích quốc gia – dân tộc cho từng thời kỳ, chỉ ra cái bất biến và cái khả biến trong lợi ích quốc gia – dân tộc; đồng thời, hoạch định chiến lược thích hợp và khả thi để bảo vệ vững chắc và thực hiện thành công lợi ích quốc gia – dân tộc. Tư duy và đổi mới tư duy của Đảng ta về lợi ích quốc gia – dân tộc nhờ đó mà luôn mang tính hợp lý và kịp thời, luôn xác thực và phát huy được tác dụng. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc là quan điểm xuyên suốt chi phối việc hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Những thành tựu của đất nước ngày hôm nay cho thấy quan điểm của Đảng đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết, trước hết là hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt. Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ tiếp tục diễn biến rất phức tạp, nhiều nguy cơ và thách thức to lớn đặt ra đối với an ninh và phát triển của đất nước. Kiên định trên con đường độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, Việt Nam cần tiếp tục bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc của mình trên cơ sở hài hòa và đóng góp vào lợi ích của các đối tác, khu vực và toàn cầu. Đó vừa là mục tiêu bất biến, vừa là kim chỉ nam cho hành động để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng phát triển của mình hướng tới những dấu mốc lịch sử quan trọng của đất nước vào các năm 2025, năm 2030 và năm 2045, xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2003), Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Stein Tonnesson (2013), Việt Nam năm 1946, chiến tranh bắt đầu như thế nào, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Nguyễn Cơ Thạch (1990), “Những chuyển biến trên thế giới và tư duy mới của chúng ta”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 1, tr. 7

Tin mới hơn

Tin cũ hơn