80 NĂM TỪ HÀO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM - ĐỘI QUÂN LÀM NÊN NHỮNG CHIẾN THẮNG VĨ ĐẠI

Nguyễn Thị Vân – TNUT
“Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”
Đó là lời khen tặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho Quân đội nhân dân Việt Nam nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập (22-12-1944 / 22-12-1964) và đó cũng chính là truyền thống vẻ vang của quân đội ta, là chuẩn mực của Bộ đội Cụ Hồ. Trải qua 80 năm hình thành và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Quân ủy Trung ương, quân đội ta đã vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hiểm nguy để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của 1 đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu và phục vụ. Quân đội nhân dân Việt Nam không chỉ là lực lượng bảo vệ Tổ quốc mà còn là biểu tượng của ý chí độc lập, tinh thần tự cường và sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.
Quân đội nhân dân Việt Nam - từ lực lượng tuyên truyền nhỏ bé đến đội quân làm nên những chiến thắng vĩ đại trong lịch sử Việt Nam và thế giới.
Từ những mầm mống đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng như đội “Tự vệ Đỏ", Du kích Bắc Sơn đến 3 trung đội “Cứu quốc quân”, rồi đội du kích Nam kỳ đã đánh dấu một mốc quan trọng trong phong trào cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ những cuộc vận động cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng Sản Việt Nam), ngày 22/12/1944, tại chiến khu Việt Bắc, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ra đời, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam. 
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập tại khu rừng Trần Hưng Đạo, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, gồm 3 tiểu đội với 34 chiến sĩ được lựa chọn từ những chiến sĩ Cao-Bắc-Lạng, do đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy. Ngay từ khi ra đời đã phải liên tục, liên tiếp tiến hành nhiều cuộc chiến tranh vệ quốc trường kỳ, gian khổ, ác liệt với nhiều kẻ thù có sức mạnh vượt trội đến từ các cường quốc
Ngay sau ngày thành lập, 17 giờ ngày 25/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã mưu trí, táo bạo, bất ngờ đột nhập vào đồn Phai Khắt và 07 giờ sáng hôm sau (26/12) lại đột nhập đồn Nà Ngần (đều đóng tại châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), tiêu diệt hai tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ binh lính địch, thu vũ khí, quân trang, quân dụng. Chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần mở đầu cho truyền thống quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam. 
Tháng 4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ của Đảng đã quyết định hợp nhất các tổ chức vũ trang cách mạng trên cả nước thành Việt Nam giải phóng quân. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam giải phóng quân đã cùng lực lượng vũ trang các địa phương và Nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam giải phóng quân được đổi tên thành Vệ quốc đoàn, rồi Quân đội quốc gia Việt Nam (1946), từ năm 1950 được gọi là Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là một hành trình lịch sử mà quân đội ta phải chiến đấu với những kẻ thù to lớn và hung bạo, đông về quân số, tân tiến về vũ khí, uy lực về hỏa lực của tất cả các binh chủng, quân chủng.
Những chiến công lừng lẫy của Quân đội nhân dân Việt Nam 80 năm qua đã ghi vào lịch sử dân tộc những mốc son cho hòa bình, độc lập của dân tộc. Trong cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ 2 của thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang phát triển mạnh mẽ, cùng Nhân dân ta nhất tề đứng lên, quyết chiến đấu với quân xâm lược. Trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, quân và dân ta đã đánh hàng trăm trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Tiếp theo với chiến thắng Việt Bắc (1947), Quân đội ta đã có bước trưởng thành, song chưa có khả năng mở những chiến dịch lớn. Để đánh bại âm mưu bình định của địch, ta chủ trương phát động chiến tranh du kích rộng khắp và thực hiện “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”, vừa đẩy mạnh chiến tranh du kích vừa học tập tác chiến tập trung vận động chiến. Các tiểu đoàn tập trung được củng cố xây dựng và từng bước tiến lên đánh những trận phục kích, tập kích lớn hơn. Từ đầu năm 1948 đến giữa năm 1950, bộ đội ta liên tiếp mở trên 20 chiến dịch nhỏ trên các chiến trường. Mức độ tập trung cho mỗi chiến dịch từ 3 đến 5 tiểu đoàn, sau nâng dần lên 2 đến 3 trung đoàn, có chiến dịch sử dụng cả sơn pháo và trọng liên. Trong nhiều trận đánh, quân ta đã tiêu diệt từng đại đội đến tiểu đoàn địch ở ngoài công sự và tiêu diệt cứ điểm có trên dưới một đại đội địch đóng giữ.
Từ giữa năm 1949, Bộ Tổng Tư lệnh chủ trương rút các đại đội độc lập về xây dựng các trung đoàn, đại đoàn chủ lực. Ngày 28/8/1949, Đại đoàn 308 ra đời; ngày 10/3/1950, Đại đoàn 304 được thành lập. Công tác huấn luyện được đẩy mạnh. Qua các cuộc vận động “luyện quân lập công”, “rèn cán chỉnh quân” trong các năm 1948, 1949 và đầu năm 1950, lực lượng vũ trang ta không ngừng phát triển và ngày càng lớn mạnh.
Tháng 6/1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới, chủ động tấn công Pháp. Sau gần một tháng (16/9 - 14/10/1950), ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8.000 tên địch, giải phóng khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng Sơn), căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và củng cố, phá vỡ thế bao vây, khai thông liên lạc với Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, kết nối cách mạng nước ta với cách mạng thế giới. Chiến thắng Biên giới góp phần quan trọng làm thay đổi cục diện chiến tranh: Ta bước sang giai đoạn chiến lược phản công và tiến công, quân Pháp chuyển dần sang chiến lược phòng ngự; đồng thời đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về nghệ thuật chiến dịch và sự trưởng thành lớn mạnh của Quân đội ta.
Sau chiến dịch Biên giới, các đại đoàn chủ lực tiếp tục được thành lập: Đại đoàn 312 (12/1950), Đại đoàn 320 (1/1951), Đại đoàn công pháo 351 (3/1951), Đại đoàn 316 (5/1951). Sau đó, chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 được mở ra và giành nhiều thắng lợi.
Sau khi thực dân Pháp đổ quân đánh chiếm Điện Biên Phủ, trước thời cơ thuận lợi, ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 56 ngày đêm (13/3 - 7/5/1954) liên tục chiến đấu, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, làm lên một chiến thắng lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Chiến dịch Điện Biên Phủ là một điển hình xuất sắc, là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp; đồng thời là minh chứng cho sự phát triển vượt bậc của Quân đội ta sau 10 năm xây dựng, chiến đấu và chiến thắng vẻ vang (1944 - 1954).
Đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, tháng 3/1957, Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (mở rộng) ra Nghị quyết về vấn đề xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, Nghị quyết chỉ rõ: “Phương châm xây dựng quân đội của chúng ta là tích cực xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh tiến dần từng bước đến chính quy hoá và hiện đại hoá”. Quân đội tiếp tục đóng vai trò nòng cốt, từ những trận đánh nhỏ tại miền Nam đến các chiến dịch quy mô lớn như Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968), Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (1971), Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (1975). Chiến thắng ngày 30/4/1975 không chỉ là thắng lợi của quân và dân Việt Nam mà còn là nguồn cổ vũ to lớn cho phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. 
Sau chiến tranh, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục khẳng định vai trò nòng cốt trong bảo vệ chủ quyền biên giới và biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Những chiến dịch bảo vệ biên giới phía Tây Nam và phía Bắc vào các năm 1978, 1979 đã thể hiện rõ bản lĩnh kiên cường và sự trưởng thành vượt bậc của lực lượng vũ trang Việt Nam. 
Phát huy sức mạnh của Quân đội nhân dân trong tình hình mới.
Trong bối cảnh thế giới biến đổi nhanh chóng, Quân đội nhân dân Việt Nam đang đối mặt với những thách thức ngày càng phức tạp về an ninh truyền thống và phi truyền thống. Các tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông cùng với các vấn đề như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia đặt ra yêu cầu cấp thiết về đổi mới và nâng cao năng lực toàn diện. Trước tình hình đó, Quân đội phải không ngừng phát triển về chiến lược, trang bị hiện đại và kỹ năng tác chiến để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới.
Trong thời bình, tinh thần “vì Nhân dân quên mình” vẫn là kim chỉ nam cho hành động của các chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Trước thiên tai và dịch bệnh, hình ảnh người lính dũng cảm lao vào tâm bão, vùng lũ để cứu dân, hay kiên cường đứng tuyến đầu chống đại dịch COVID-19 đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng Nhân dân. Những chiến sĩ bộ đội biên phòng ngày đêm tuần tra biên giới, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, đồng thời tích cực giúp đồng bào dân tộc thiểu số xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, trở thành biểu tượng sống động của mối quan hệ quân dân bền chặt. Tại các vùng sâu, vùng xa, họ còn đảm nhận vai trò “thầy giáo quân hàm xanh” và bác sĩ quân y, mang kiến thức và sức khỏe đến cho đồng bào, góp phần nâng cao đời sống và trí thức của Nhân dân, thể hiện sâu sắc sứ mệnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời đại mới.  Không dừng lại ở đó, Quân đội còn đóng vai trò tiên phong, góp sức, đồng hành với Nhân dân trong nhiều chương trình phát triển kinh tế - xã hội, như xây dựng đường sá, trường học, trạm y tế ở vùng sâu, vùng xa; bảo vệ và gìn giữ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số. 
Hiện nay, Quân đội nhân dân Việt Nam đang theo đuổi mục tiêu xây dựng một lực lượng chính quy, tinh nhuệ và dần dần hiện đại hóa, với trọng tâm là nâng cao khả năng tác chiến trên không và trên biển, nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo và biên giới quốc gia. Các lực lượng như Hải quân, Không quân, Cảnh sát biển và Bộ đội Biên phòng đã được đầu tư và trang bị các loại vũ khí hiện đại, đảm bảo sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống. Một trong những nhiệm vụ trọng yếu của quân đội hiện nay là xây dựng nền quốc phòng toàn dân mạnh mẽ, kết nối chặt chẽ với thế trận an ninh Nhân dân. Đây là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống lịch sử và yêu cầu thực tiễn, đảm bảo rằng đất nước luôn trong trạng thái sẵn sàng bảo vệ chủ quyền và độc lập.
Bên cạnh nhiệm vụ quốc phòng trong nước, Quân đội nhân dân Việt Nam không ngừng tăng cường hợp tác quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực quốc phòng và tham gia tích cực vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc. Sự góp mặt của các sĩ quan Việt Nam tại các phái bộ như Nam Sudan và Cộng hòa Trung Phi đã thể hiện rõ trách nhiệm của Việt Nam đối với hòa bình, ổn định toàn cầu. Đồng thời, những đóng góp này đã góp phần nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế, khẳng định hình ảnh một Việt Nam yêu chuộng hòa bình và sẵn sàng đóng góp vào các vấn đề chung của thế giới.
Trải qua 80 năm xây dựng và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam đã lập nên những chiến công hiển hách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, viết nên những trang sử vàng chói lọi bằng ý chí kiên cường và sự hy sinh cao cả. Từ những thắng lợi oanh liệt trong kháng chiến đến những đóng góp bền bỉ trong thời bình, Quân đội luôn là niềm tự hào và chỗ dựa vững chắc của Nhân dân. Nhân dịp kỷ niệm 80 năm thành lập, chúng ta càng thêm tự hào và vững tin rằng Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục giữ vững tinh thần “Trung với Đảng, hiếu với dân”, phát huy truyền thống anh hùng, không chỉ hoàn thành xuất sắc sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc mà còn là lực lượng tiên phong đồng hành cùng đất nước trên con đường phát triển và hội nhập; đồng thời đóng góp tích cực vào hòa bình và ổn định của khu vực cũng như thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Quốc phòng Việt Nam, Nghị quyết và văn kiện nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới. Truy cập từ: https://www.mod.gov.vn.
2. Nguyễn Xuân Mai, Những Chặng Đường Lịch Sử của Quân đội Nhân dân Việt Nam, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, 2015.
3. Nguyễn Văn Minh (Chủ biên), Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 2020.
4. Trần Văn Thảo, Bộ đội Cụ Hồ trong lòng dân, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 2018.

Tin mới hơn

Tin cũ hơn