TS. Nguyễn Thị Thu Thủy, Bộ môn Chủ nghĩa Mác – Lênin
Khoa KHCB & ƯD, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp
Tóm tắt
Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc, có giá trị định hướng cho sự nghiệp xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là giảng viên lý luận chính trị trong bối cảnh hiện nay. Bài viết phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ và vận dụng vào việc xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, bài viết nêu rõ những ưu điểm, hạn chế, khó khăn trong đội ngũ giảng viên lý luận chính trị, để từ đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những hạn chế, khó khăn, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị hiện nay.
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng viên lý luận chính trị, đổi mới giáo dục, cán bộ, xây dựng, phát triển đội ngũ.
A. MỞ ĐẦU
Giáo dục lý luận chính trị (LLCT) có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nhân cách, bản lĩnh chính trị và ý thức hệ cho sinh viên, người học – những chủ nhân tương lai của đất nước.
Đội ngũ giảng viên LLCT đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh đổi mới giáo dục, toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (4.0), việc xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên này đang đối mặt với nhiều thách thức. Vì vậy, việc vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về công tác cán bộ nói chung, xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên LLCT nói riêng là việc hết sức cần thiết và là giải pháp có ý nghĩa chiến lược để xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên LLCT vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên môn, có đạo đức, phong cách phù hợp đáp ứng yêu cầu của thực tiễn Việt Nam hiện nay.
B. NỘI DUNG
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác cán bộ trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người về cán bộ và công tác cán bộ là một hệ thống tư tưởng xuyên suốt, toàn diện và có giá trị lý luận – thực tiễn sâu sắc, được đúc kết từ trải nghiệm thực tiễn cách mạng phong phú và sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tư tưởng của Người không chỉ là kim chỉ nam trong xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, mà còn đặc biệt có ý nghĩa trong việc xây dựng. phát triển đội ngũ giảng viên LLCT – những người giữ vai trò truyền bá tư tưởng, định hướng chính trị và hình thành nhân cách, phẩm chất cách mạng cho sinh viên, người học hiện nay.
Trong phạm vi bài viết này, tôi xin đề cập đến một số nội dung cơ bản về cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ thể:
1.1. Quan điểm cán bộ là “gốc của mọi công việc”
Hồ Chí Minh cho rằng: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”. Người đã nhiều lần khẳng định: “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [1, tr240,269]. Cán bộ là người tổ chức, hướng dẫn và trực tiếp thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do đó, đội ngũ cán bộ là lực lượng quyết định hiệu quả của mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa đến quốc phòng, an ninh và giáo dục. Với quan điểm này, Hồ Chí Minh đặt công tác cán bộ ở vị trí chiến lược, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng và quản lý Nhà nước. Việc “trồng người” – đào tạo, sử dụng cán bộ phải đi trước một bước, phải có tầm nhìn lâu dài và phương pháp đúng đắn.
1.2. Yêu cầu toàn diện đối với cán bộ
Đức và Tài là yêu cầu cơ bản, toàn diện đối với cán bộ. Người cho rằng: cán bộ muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ không chỉ cần có năng lực chuyên môn mà còn cần phải có đạo đức cách mạng. Người nhấn mạnh sự kết hợp và mối quan hệ biện chứng giữa “hồng” (đức) và “chuyên” (tài). Câu nói nổi tiếng của Người: “ Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”; “Có tài mà không có đức, tham ô, hủ hóa có hại cho nước và có đức không có tài như ông Bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được”. [2, tr345, 346]… thể hiện rõ quan điểm toàn diện và biện chứng trong đánh giá, sử dụng và đào tạo cán bộ. Tư tưởng này có ý nghĩa đặc biệt trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời đại mới, khi mà những cám dỗ về vật chất, quyền lực, lợi ích cá nhân có thể làm xói mòn phẩm chất, đạo đức nếu không có tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng.
1.3. Ba nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
a, Về phẩm chất đạo đức
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” đây là hệ giá trị đạo đức cốt lõi của người cán bộ cách mạng theo quan điểm của Hồ Chí Minh.
Cần là cần cù, chịu khó, hết lòng vì công việc chung, không lười biếng, không ỷ lại, trông chờ vào người khác.
Kiệm là biết tiết kiệm thời gian, sức lực, tiền của Nhà nước và Nhân dân; tránh xa thói tiêu xài lãng phí.
Liêm là giữ sự trong sạch, không tham lam danh lợi, không lợi dụng chức vụ để trục lợi cá nhân.
Chính là thẳng thắn, trung thực, không thiên vị, không mưu lợi cá nhân.
Chí công vô tư là đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân, công minh trong công việc, không thiên vị người thân hay bè bạn.
Người cán bộ LLCT đặc biệt cần giữ vững những phẩm chất này bởi họ không chỉ là người truyền thụ tri thức mà còn là tấm gương đạo đức, là người truyền cảm hứng về lý tưởng cách mạng và lối sống trong sạch cho sinh viên, người học.
b. Về năng lực chuyên môn
Không ngừng học tập, nâng cao trình độ, lý luận gắn liền với thực tiễn. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, hiểu biết toàn diện, đặc biệt là trong thời đại mới. Người nhấn mạnh rằng: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Cán bộ lý luận càng cần tinh thông LLCT, nhưng không được giáo điều, sách vở mà phải biết vận dụng vào thực tiễn. Người dạy: “lý luận phải liên hệ chặt chẽ với thực tế, nếu không sẽ trở thành lý luận suông”. Giảng viên LLCT cần đi sâu vào đời sống, vào công cuộc đổi mới đất nước để làm cho nội dung giảng dạy gần gũi, thiết thực, sinh động.
c. Về phong cách
Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải gương mẫu, dân chủ, nói đi đôi với làm. Người nêu cao vai trò phong cách của người cán bộ, trong đó có ba điểm nổi bật: Gương mẫu: cán bộ phải là người đi đầu, nói ít làm nhiều, làm gương cho quần chúng; Dân chủ: biết lắng nghe ý kiến cấp dưới và đồng nghiệp; tạo điều kiện cho mọi người phát huy trí tuệ tập thể; Nói đi đôi với làm: không nói suông, không hô hào hình thức, phải thực hiện đúng điều mình tuyên truyền, giảng dạy. Đây là những yếu tố làm nên sự thuyết phục của người cán bộ lý luận – người truyền bá tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chính phong cách chuẩn mực, gần gũi và thực tế của người cán bộ sẽ là tấm gương sống động, lan tỏa giá trị đạo đức và tư tưởng đến người học.
Như vậy, có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là một di sản quý báu, mang tính định hướng lâu dài trong xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng, đặc biệt là đội ngũ giảng viên LLCT trong bối cảnh hiện nay. Việc thấm nhuần và vận dụng các quan điểm của Người sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
2. Vai trò của đội ngũ giảng viên LLCT trong giai đoạn hiện nay
Trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền đồng thời đối mặt với nhiều thách thức từ hội nhập quốc tế, chuyển đổi số và các tác động của mặt trái toàn cầu hóa, đội ngũ giảng viên LLCT đóng một vai trò đặc biệt quan trọng – không chỉ trong giáo dục mà còn trong giữ gìn bản sắc văn hóa, tư tưởng, củng cố lòng tin chính trị và truyền bá giá trị cách mạng cho thế hệ trẻ. Vai trò của đội ngũ cán bộ giảng dạy LLCT trong các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam hiện nay thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:
2.1. Đội ngũ cán bộ giảng viên LLCT là lực lượng then chốt trong giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho sinh viên, người học
Giảng viên LLCT không chỉ truyền đạt kiến thức lý luận mà còn trực tiếp định hướng tư tưởng, đạo đức, lối sống cho sinh viên, người học – những chủ nhân tương lai của đất nước. Trong bối cảnh có nhiều luồng tư tưởng đa chiều, thậm chí đối lập, phản động tràn vào qua mạng xã hội, phim ảnh, báo chí quốc tế… , việc giúp sinh viên, người học “tự đề kháng” trước những biểu hiện sai trái, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh càng trở nên quan trọng.
Giảng viên LLCT là người định hướng nhận thức chính trị, giúp sinh viên hiểu biết đúng về bản chất chế độ, con đường phát triển của đất nước.
Giảng viên LLCT là người khơi dậy niềm tin, lý tưởng cách mạng, khuyến khích thế hệ trẻ cống hiến cho sự nghiệp chung của dân tộc.
2.2. Đội ngũ giảng viên LLCT góp phần giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng trong giáo dục đại học, cao đẳng.
Nghị quyết TƯ 4 khóa XII, xác định một trong những nguy cơ lớn là: “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong đó, giáo dục LLCT là một thành lũy bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giảng viên LLCT là “người gác công tư tưởng” trong nhà trường, giúp phòng chống sự xâm nhập của các quan điểm lệch lạc, phản động, phản khoa học. Họ là cầu nối giữa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với sinh viên, truyền tải các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật một cách logic, phù hợp nhận thức và tâm lý giới trẻ.
2.3. Đội ngũ giảng viên LLCT là tác nhân đổi mới phương pháp và nội dung giảng dạy tư tưởng – chính trị
Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục LLCT không còn là “một chiều” và khô khan như trước. Giảng viên LLCT phải trở thành người sáng tạo nội dung, thiết kế sư phạm hiện đại, làm cho lý luận trở nên gần gũi, hấp dẫn và có tính ứng dụng cao trong thực tiễn cuộc sống.
Giảng viên LLCT chủ động ứng dụng công nghệ (AI, đa phương tiện, mô phỏng…) vào giảng dạy LLCT.
Giảng viên LLCT đóng vai trò “biến những gì trừu tượng thành cụ thể, những gì xa vời thành thiết thực”, thông qua các hình thức học tập trải nghiệm, diễn đàn chính trị, mô hình thực hành lý luận gắn với phong trào Đoàn – Hội.
2.4. Đội ngũ giảng viên LLCT thúc đẩy nghiên cứu khoa học và phản biện xã hội
Đội ngũ giảng viên LLCT không chỉ giảng dạy mà còn là lực lượng quan trọng trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Thông qua các đề tài nghiên cứu, hội thảo khoa học, tham luận lý luận…, họ góp phần lý giải, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh… trong điều kiện mới.
Đội ngũ giảng viên LLCT là những người đưa LLCT tiếp cận đời sống thực tiễn, không chỉ dừng ở giáo trình, mà đi vào các vấn đề cụ thể như: xây dựng văn hóa chính trị, phát triển đạo đức công vụ, ứng dụng mạng xã hội…
Đội ngũ giảng viên LLCT góp phần xây dựng diễn đàn học thuật phê bình, phản biện những quan điểm sai lệch trong xã hội, từ đó củng cố tính khoa học và thực tiễn của LLCT trong đời sống hiện đại.
2.5 Đội ngũ giảng viên LLCT là hình mẫu đạo đức – nhân cách cho sinh viên, người học noi theo
Tư tưởng Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò nêu gương: “muốn dạy người khác, trước hết mình phải là người mẫu mực”. Trong thời đại hiện nay, khi sinh viên, người học tiếp nhận rất nhiều hình mẫu từ mạng xã hội, điện ảnh… thì giảng viên LLCT càng cần trở thành hình mẫu đạo đức, sông trung thực, giản dị, có lý tưởng cách mạng rõ ràng.
Giảng viên LLCT phải là người “nói ít, làm nhiều”, không giáo điều, lý thuyết suống, mà thể hiện lý tưởng sống bằng hành động cụ thể, gần gũi sinh viên, người học.
Giảng viên LLCT là những công dân gương mẫu trong thực hiện chính sách, pháp luật, có uy tín trong cộng đồng học thuật và xã hội.
Tóm tại, có thể nói, vai trò của giảng viên LLCT trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam là một lực lượng đặc biệt: Họ vừa là nhà giáo, vừa là chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng. Trong bối cảnh hiện nay, họ giữ vai trò không thể thay thế trong việc: giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của nền giáo dục; xây dựng niềm tin và lý tưởng sống cho thế hệ trẻ; đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững về tư tưởng, chính trị trong môi trường đại học; đồng thời là tác nhân quan trong thúc đẩy đổi mới giáo dục và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
3. Thực trạng đội ngũ giảng viên LLCT trong các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam hiện nay
3.1. Ưu điểm
Một là, đội ngũ giảng viên LLCT có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao. Đây là ưu điểm cốt lõi của đội ngũ giảng viên LLCT – một nhóm giảng viên có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống giáo dục đại học. Trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu rộng, nền tảng tư tưởng vững chắc là điều kiện tiên quyết để giảng viên LLCT hoàn thành nhiệm vụ định hướng tư tưởng cho sinh viên, người học. Đa số giảng viên LLCT hiện nay là đảng viên, được đào tạo bài bản về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có lập trường kiên định, trung thành với con đường cách mạng do Đảng lãnh đạo. Không chỉ dừng lại ở việc “đủ chuẩn lý luận”, họ còn tích cực tham gia các hoạt động tuyên truyền, giáo dục chính trị - tư tưởng trong và ngoài giảng đường như: tổ chức tọa đàm, hướng dẫn sinh viên tham gia cuộc thi “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh”, “Ánh sáng soi đường”, “Tôi yêu Tổ quốc tôi”… Theo Báo cáo tổng kết năm 2020 của Ban Tuyên giáo Trung Ương, trên 92% giảng viên LLCT trong hệ thống giáo dục đại học là đảng viên. Gần 70% giảng viên LLCT tham gia trực tiếp vào công tác Đoàn – Hội, chi bộ khoa hoặc công tác tuyên giáo tại địa phương… [3].
Hai là, đội ngũ giảng viên LLCT tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy. Khác với định kiến cũ rằng các môn LLCT khô khan, “đọc - chép”, hiện nay, nhiều giảng viên LLCT đã chủ động áp dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại nhằm tạo hứng thú học tập, phát huy tư duy phản biện và gắn kết nội dung lý luận với thực tiễn cuộc sống. Họ sử dụng các phần mềm tương tác, ứng dụng mô hình dạy học ngược, đặt vấn đề, thảo luận nhóm, tình huống thực tiễn, phản biện hai chiều giữa sinh viên và giảng viên. Ngoài ra, việc tích hợp công nghệ thông tin vào giảng dạy là xu hướng tất yếu. Giảng viên sử dụng video, trình chiếu, podcast chính trị để minh họa các bài học vốn trừu tượng – như chuyên đề về “Vai trò của Đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”… và các bài giảng chính trị khác. Theo khảo sát của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2022, hơn 60% giảng viên LLCT thường xuyên sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, tăng gần 30% so với năm 2018. Ở một số trường đại học như đại học Quốc gia Hà Nội, trên 70% giờ giảng các môn LLCT đã chuyển sang mô hình tích hợp đa phương tiện. Có trên 1500 bài giảng E-learning các môn LLCT được xây dựng trên các nền tảng Moodle, LMS… từ năm 2020 đến nay. [5]
Ba là, đội ngũ giảng viên LLCT không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là thước đo quan trọng để đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT. Nhiều giảng viên đã chủ động học sau đại học, tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên sâu về LLCT, các học phần như: “Phân tích chính sách công”, “Triết học ứng dụng”, “Tư duy phản biện trong LLCT”. Việc tham gia nghiên cứu khoa học – viết sách, viết giáo trình, hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học – cũng ngày càng tăng mạnh, tạo nền tảng để nội dung bài giảng luôn được cập nhật và bám sát yêu cầu thực tiễn. Theo thống kê năm 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cả nước có khoảng 3.395 giảng viên LLCT công tác tại gần 500 trường đại học, cao đẳng. Trung bình mỗi trường có khoảng 7 giảng viên LLCT [4]. Năm 2023, có hơn 75% giảng viên LLCT có trình độ sau đại học, trong đó khoảng 30% có học vị tiến sĩ. Mỗi năm, có trên 300 công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ hoặc cơ sở do giảng viên LLCT thực hiện. [6].
3.2. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, hiện nay, đội ngũ giảng viên LLCT vẫn còn có những hạn chế, cụ thể như:
Về năng lực nghiên cứu khoa, thiếu thực tiễn. Nghiên cứu khoa học là một yêu cầu không thể thiếu đối với giảng viên đại học, đặc biệt là giảng viên LLCT – những người không chỉ giảng dạy mà còn có trách nhiệm phát triển lý luận, giải thích và làm sáng rõ các vấn đề chính trị, tư tưởng trong thời đại mới. Tuy nhiên, năng lực nghiên cứu của một bộ phận giảng viên LLCT vẫn còn hạn chế, thể hiện ở các mặt sau: ít công trình khoa học có giá trị thực tiễn cao, nhiều bài viết mang tính lý luận hàn lâm, chưa gắn kết với các vấn đề cụ thể của xã hội Việt Nam hiện đại; chưa chủ động tham gia các đề tài nghiên cứu lớn, còn phổ biến hiện tượng “ngại nghiên cứu”, chỉ tập trung giảng dạy hoặc dừng lại ở mức độ “hoàn thành nhiệm vụ” để nâng ngạch, nâng hạng; thiếu thực tiễn công tác do hầu hết giảng viên LLCT là những người đi theo hướng học thuật từ đầu nên chưa từng trải qua công tác thực tế trong các cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị Đảng, đoàn thể. Điều này khiến họ gặp khó khăn trong việc dẫn chứng sinh động, đưa thực tiễn vào bài giảng. Theo kết quả khảo sát của Viện Khoa học Chính trị Quốc gia năm 2021, chỉ khoảng 18% giảng viên LLCT tham gia nghiên cứu khoa học cấp Bộ trở lên trong vòng 3 năm gần nhất. Có đến 42% giảng viên LLCT cho rằng họ chưa có điều kiện tiếp cận thực tiễn tại các địa phương, cơ sở Đảng dẫn đến bài giảng còn lý thuyết, ít cập nhật. [7]
Về phương pháp nghiên cứu giảng dạy còn đơn điệu, chưa hấp dẫn. Một số giảng viên LLCT vẫn sử dụng lối dạy truyền thống, một chiều đọc – chép, thuyết trình đơn thuần, ít tranh luận, thảo luận – gây cảm giác nhàm chán cho người học. Các lý do chính: thiếu kỹ năng sư phạm hiện đại, một số giảng viên có tuổi không được đào tạo hoặc cập nhật các phương pháp dạy học mới, tâm lý ngại thay đổi hoặc cho rằng các môn LLCT là môn phụ chỉ cần hoàn thành theo chương trình là đủ…. Theo khảo sát năm 2023 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, gần 30% giảng viên LLCT chưa từng tham gia khóa đào tạo – bồi dưỡng phương pháp giảng dạy tích cực trong 5 năm gần đây. Khảo sát trên 3.000 sinh viên của một số đại học lớn cho thấy chỉ 48% sinh viên đánh giá giảng viên LLCT có phương pháp giảng dạy hấp dẫn; có 36% sinh viên cho rằng các giờ học LLCT thiếu thực tế, khó hiểu và khô khan.[6]
Về chậm thích ứng với công nghệ mới. Trong bối cảnh giáo dục đại học chuyển sang mô hình số, việc giảng viên LLCT tiếp cận và vận dụng công nghệ thông tin là yêu cầu bắt buộc. Tuy nhiên, vẫn tồn tại các điểm yếu: không thành thạo công cụ dạy học trực tuyến, thiếu sáng tạo trong thiết kế bài giảng, chưa hình thành năng lực số toàn diện (bao gồm cả kỹ năng tìm kiếm thông tin, số hóa tài liệu, đánh giá – kiểm tra online)… Theo thống kê, chỉ khoảng 55% giảng viên LLCT có năng lực sử dụng tốt các phần mềm dạy học trực tuyến. Trong số này, chưa đến 15% có kỹ năng thiết kế bài giảng đạt chuẩn E-learning.
3.3. Khó khăn chung
Khó khăn chung trong xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên LLCT là chế độ đãi ngộ, môi trường làm việc chưa tương xứng. Công việc của giảng viên LLCT mang đặc thù: vừa giảng dạy, vừa làm công tác tư tưởng – chính trị, nhưng chế độ hiện hành chưa phản ánh đúng vai trò đó, cụ thể: thu nhập chưa tương xứng do LLCT không phải là ngành “hot”, mức lương chủ yếu phụ thuộc thâm niên; ít có cơ hội thăng tiến, ít có cơ hội làm các đề tài nghiên cứu khoa học lớn, thiếu các hội thảo khoa học chuyên sâu, khó tích lũy điểm nghiên cứu; chưa có chính sách thu hút người trẻ dẫn đến nhiều sinh viên giỏi, tốt nghiệp ngành Triết học, Chính trị… không mặn mà theo nghề do đãi ngộ thấp, môi trường học thuật ít hấp dẫn… Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2023, chỉ 4,2% giảng viên trẻ dưới 30 tuổi chọn công tác tại khoa, bộ môn LLCT sau khi tốt nghiệp. Hơn 60% giảng viên LLCT ở các trường cao đẳng có mức thu nhập dưới 8 triệu đồng/tháng. Tại nhiều địa phương, tỷ lệ giảng viên LLCT nghỉ việc hoặc chuyển ngành tăng 15% trong giai đoạn 2018-2022. [6]
Tóm lại, mặc dù đội ngũ giảng viên LLCT hiện nay có nhiều ưu điểm nổi bật, nhưng những hạn chế và khó khăn kể trên đang là rào cản lớn ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy và vai trò định hướng tư tưởng – chính trị trong sinh viên. Việc nhận dện rõ thực trạng là bước đầu để từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản phù hợp về bồi dưỡng chuyên môn, phương pháp sư phạm, ứng dụng công nghệ và cải thiện chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ giảng viên LLCT.
4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để đề ra các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, khó khăn, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng dạy LLCT tại các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam hiện nay
Xuất phát từ vai trò và thực trạng của đội ngũ giảng viên LLCT hiện nay, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên LLCT đáp ứng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là nhiệm vụ cấp thiết. Để khắc phục những khó khăn, hạn chế và nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT trong thời gian tới, chúng ta cần:
4.1. Tiếp tục xây dựng và củng cố phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cho đội ngũ giảng viên LLCT
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản” và “Cán bộ là gốc của mọi công việc”. Đối với người làm công tác tư tưởng, đạo đức và lập trường chính trị càng phải vững như bàn thạch bởi “làm cách mạng mà không có đạo đức thì cũng như không có gốc”. Để xây dựng và củng cố phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cho đội ngũ giảng viên LLCT, cần: Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng chính trị - tư tưởng không chỉ dừng lại ở việc phổ biến nghị quyết, mà cần tổ chức thảo luận nhóm, chia sẻ thực tế, lồng ghép chính trị đầu khóa, giữa khóa học chuyên môn, bồi dưỡng…; Thực hiện đánh giá đạo đức và phẩm chất chính trị theo 3 chiều: từ các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể, từ đồng nghiệp và phản hồi của sinh viên, người học; Thực hiện nêu gương người học, tự tu dưỡng, học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh…
4.2. Nâng cao năng lực chuyên môn, gắn lý luận với thực tiễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Học phải đi đôi với hành. Lý luận phải liên hệ với thực tế. Muốn viết lý luận phải đi sát thực tiễn”. Người cũng cho rằng, cán bộ làm công tác giáo dục phải thường xuyên học tập, cập nhật tri thức để theo kịp yêu cầu cách mạng. Giảng viên LLCT cũng phải không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, gắn lý luận với thực tiễn. Giải pháp cụ thể: Tăng cường mở rộng cơ hội học tập, bồi dưỡng chuyên môn lý luận, nghiệp vụ cho giảng viên LLCT thông qua các lớp học cao học, tiến sĩ, hội thảo quốc tế, bồi dưỡng chuyên đề chuyên sâu; Gắn kết nghiên cứu khoa học với nhu cầu của địa phương, doanh nghiệp, xã hội. Khuyến khích giảng viên viết LLCT từ thực tiễn công cuộc đổi mới ở địa phương như xây dựng Đảng ở cơ sở, chính sách an sinh xã hội, cải cách hành chính…; Tổ chức luân chuyển giảng viên LLCT tham gia thực tế tại các cơ quan Đảng, chính quyền địa phương từ 3 – 6 tháng, qua đó tăng khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn giảng dạy.
4.3. Tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy và phong cách làm việc theo phong cách Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh có phong cách sư phạm mẫu mực: gần dân, dễ hiểu, nói ít hiểu nhiều, lấy người nghe làm trung tâm. Trong giáo dục, Người khuyến khích sự “dạy nhẹ nhàng, học tích cực”, phản đối cách dạy áp đặt, giáo điều. Vì vậy, cần đào tạo giảng viên LLCT về phương pháp giảng dạy hiện đại, tập trung vào: dạy học tích cực, dạy học dựa trên vấn đề, dạy học kết hợp giữa trực tiếp và trực tuyến, e-learning…; Xây dựng ngân hàng bài giảng mẫu LLCT có tính gợi mở, phản biện, tránh trình bầy một chiều. Khuyến khích tranh luận học thuật trong các lớp học chính trị; Đưa công nghệ thông tin thành công cụ bắt buộc trong giảng dạy LLCT…
4.4. Chính sách phát triển đội ngũ – Xây dựng môi trường làm việc lý tưởng
Hồ Chí Minh căn dặn: “Muốn dùng người phải yêu người. Muốn thu hút người tài phải tạo điều kiện để họ làm việc tốt”. Người đặc biệt quan tâm đến chế độ đãi ngộ và môi trường công tác: “Không thể chỉ kêu gọi bằng đạo lý, mà phải tạo điều kiện vật chất phù hợp”. Vì vậy, cần tăng phụ cấp trách nhiệm, chính sách ưu đãi cho giảng viên LLCT, đặc biệt là người giảng dạy tại các vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa; Xây dựng môi trường học thuật dân chủ - sáng tạo: tạo điều kiện để giảng viên LLCT tự chủ học thuật, được phản biện, trao đổi quan điểm trong khuôn khổ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước; Khuyến khích sinh viên học theo ngành LLCT bằng học bổng, tuyển dụng đặc cách hoặc chương trình cử tuyển chính trị viên…
Việc xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên LLCT vững mạnh là một nhiệm vụ chính trị - sư phạm cấp thiết. Để khắc phục những hạn chế, khó khăn hiện nay, cần nhìn nhận một cách hệ thống từ góc độ tư tưởng, năng lực, phương pháp đến môi trường làm việc. Vận dung tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ giảng viên LLCT không chỉ là kế thừa giá trị lịch sử, mà còn là giải pháp bền vững để đưa LLCT đến gần hơn với đời sống sinh viên, người học, với thực tiễn đất nước.
5. Kiến nghị
5.1. Đối với Đảng và Nhà nước
Hoàn thiện thể chế, chính sách đãi ngộ riêng cho giảng viên LLCT.
Đảng và Nhà nước cần nghiên cứu thực tiễn đời sống của giảng viên LLCT để xây dựng chính sách phụ cấp đặc thù cho giảng viên LLCT (tương tự như giảng viên ngành đặc thù quốc phòng, an ninh) gắn với yêu cầu về trách nhiệm chính trị và tư tưởng.
Có cơ chế ưu tiên đaoà tạo, bồi dưỡng chuyên môn, lý luận cao cấp cho giảng viên LLCT, đặc biệt ở những trường đại học, cao đẳng ở địa phương khó khăn.
Ban hành chương trình khuyến khích cán bộ trẻ học ngành LLCT, hỗ trợ học phí, học bổng, cam kết bố trí việc làm sau đào tạo.
5.2. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ
Chuẩn hóa đội ngũ và nội dung giảng dạy LLCT theo chuẩn mới: Hoàn thiện bộ tiêu chuẩn năng lực giảng viên LLCT trên toàn quốc gồm phẩm chất chính trị - đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm, kỹ năng công nghệ số; Thường xuyên kiểm định chất lượng giảng viên LLCT, đánh giá định kỳ thông qua phản hồi của sinh viên, nghiên cứu khoa học và đổi mới phương pháp giảng dạy/
Cải tiến nội dung đào tạo – bồi dưỡng LLCT. Cập nhật chương trình giảng dạy LLCT đại học theo hướng mở, tích hợp liên ngành. Ví dụ như: LLCT với quản trị công, truyền thông chính trị, giáo dục công dân toàn cầu…; Mở rộng các chương trình đào tạo liên kết quốc tế về tư tưởng chính trị - xã hội, có so sánh và tiếp biến các giá trị lý luận tiến bộ trên nền tảng vững chắc của chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
5.3. Đối với các cơ sở giáo dục đại học
Chủ động phát triển môi trường học thuật và đào tạo thực tế, cụ thể: Xây dựng “không gian học thuật LLCT mở” – nơi giảng viên và sinh viên, người học cùng tham gia thảo luận, phản biện, tổ chức talkshow về các vấn đề thời sự, thực tiến dưới góc nhìn lý luận; Mời chuyên gia, cán bộ lãnh đạo, nhà hoạt động thực tiễn… tham gia giảng dạy LLCT để bổ sung tính thời sự và gắn kết thực tiễn địa phương vào lý luận.
Đổi mới phương pháp quản lý và đánh giá giảng viên LLCT. Không chỉ đánh giá qua số giờ dạy hay các bài báo, mà cần xây dựng thước đo về tác động thực tế của bài giảng LLCT như sinh viên tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh, khả năng phản biện chính trị - xã hội…. Đồng thời, tổ chức định kỳ các cuộc thi sáng tạo phương pháp giảng dạy LLCT, mô hình dạy học trải nghiệm, công nghệ giáo dục 4.0…
5.4. Đối với bản thân đội ngũ giảng viên LLCT
Không ngừng tự học, tự tu dưỡng – thực hành theo gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ động học thêm ngành gần (khoa học xã hội, công nghệ giáo dục, kỹ năng số…) để nâng cao tính liên ngành trong giảng dạy. Duy trì thói quen đọc tài liệu mới, cập nhật thời sự, viết cảm nhận chính trị hằng tuần để gắn lý luận với đời sống.
Làm mới bài giảng – sáng tạo phương pháp truyền đạt. Sử dụng các công cụ, phần mềm số để tổ chức lớp học LLCT tương tác. Thiết kế mô hình “Talkshow tư tưởng”, “Phỏng vấn Hồ Chí Minh qua AI”, “Trò chơi chính trị trực tuyến”… để thu hút sinh viên, người học.
Trở thành tấm gương đạo đức, tác phong mẫu mực. Giảng viên LLCT phải là người sống trung thực, khiêm tốn, kiên định lập trường, gần gũi với sinh viên, nói ít làm nhiều, giữ đạo đức nhà giáo, giữ uy tín chính trị - tư tưởng…
5.5. Đối với các tổ chức Đoàn, Hội trong Nhà trường
Gắn kết hoạt động chính trị tư tưởng với phong trào sinh viên. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về Tư tưởng Hồ Chí Minh, về chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước… giúp sinh viên hứng thú và chủ động tiếp cận kiến thức LLCT.
Phối hợp với giảng viên LLCT làm cố vấn nội dung cho các hoạt động Đoàn – Hội, tránh rời rạc giữa lý luận và thực tiễn phong trào.
C. KẾT LUẬN
Việc vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên LLCT trong các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam hiện nay không chỉ là yêu cầu mang tính chính trị - tư tưởng, mà còn là giải pháp thiết thực để nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị. Đội ngũ giảng viên LLCT cần tiếp tục đổi mới toàn diện về trình độ, phương pháp, đạo đức và tác phong để vừa là nhà giáo, vừa là nhà lý luận, nhà hoạt động thực tiễn, xứng đáng với vai trò là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp giáo dục và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, NXB CHính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
2. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, NXB CHính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
3. Ban Tuyên giáo Trung ương (2021), Báo cáo về công tác giáo dục lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2020), Thống kê đội ngũ giảng viên LLCT.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2022), Thống kê đội ngũ giảng viên LLCT.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2023), Khảo sát sử dụng công nghệ thông tin trong GD.
7. Khảo sát của Viện Khoa học Chính trị Quốc gia năm 2021.
8. Nguyễn Trọng Phúc (2022), Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và vận dụng trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Lý luận Chính trị.
9. Website: lyluanchinhtrivatruyenthong.vn, lyluanchinhtri.vn (truy cập tháng 5/2025).