Phân định biển trong luật biển quốc tế và thực tiễn phân định biển giữa Việt Nam với các quốc gia trong khu vực


 

Tống Thị Phương Thảo – Bộ môn Lý luận chính trị - Đại học Kỹ thuật Công nghiệp

I. KHÁI NIỆM PHÂN ĐỊNH BIỂN 
1. Định nghĩa

Một cách tổng quát, phân định biển được hiểu là quá trình hoạch định đường ranh giới phân chia các vùng biển giữa hai hay nhiều quốc gia hữu quan. Vấn đề phân định biển được đặt ra cho các quốc gia có các vùng biển tiếp liền hoặc đối diện nhau. Việc phân định biển nhằm mục đích xác định rõ đường biên giới biển phân chia vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia hoặc xác định đường biên giới phân chia vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia.

Phân định biển là một vấn đề quan trọng trong luật biển. Vấn đề này không chỉ có ý nghĩa đối với mỗi quốc gia có biển trong xác định biên giới lãnh thổ quốc gia mà còn có vai trò đối với việc xác lập trật tự trên biển. Bên cạnh đó, phân định biển cũng là một vấn đề có tính nhạy cảm vì liên quan trực tiếp đến chủ quyền và lợi ích quốc gia. Chính vì vậy, để tránh tình trang xung đột, việc phân định biển phải được tiến hành một cách hợp lý, tôn trọng pháp luật quốc tế và thực tiễn ở các quốc gia.

2. Các phương pháp phân định biển

 Thực tiễn quan hệ quốc tế cho thấy các quốc gia thường thoả thuận áp dụng các phương pháp phân định biển như sau:

2.1. Phương pháp đường trung tuyến cách đều: đây là phương pháp áp dụng trong trường hợp các quốc gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối diện nhau. Theo phương pháp này, đường ranh giới để phân định biển chính là đường mà tất cả các điểm nằm trên đường đó đều cách đều các điểm gần nhất của đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của các quốc gia. Phương pháp đường trung tuyến cách đều thường được áp dụng để phân định lãnh hải.
2.2. Phương pháp công bằng: theo phương pháp này, trong quá trình phân định biển các bên hữu quan cần phải xem xét, cân nhắc các yếu tố cụ thể như: yếu tố hình dạng bờ biển, yếu tố đảo, yếu tố hàng hải... để từ đó tìm ra được những giải pháp công bằng được các bên công nhận. Các giải pháp đó đương nhiên mang tính đặc thù và thích ứng với từng trường hợp phân định cụ thể.
3. Các trường hợp phân định biển

Theo luật biển quốc tế và thực tiễn giữa các quốc gia, có những trường hợp phân định biển như sau:

3.1. Phân định lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải.

Cho đến nửa đầu thế kỷ XX, đa số các ranh giới lãnh hải được xác định bằng phương pháp đường trung tuyến cách đều. Khi phạm vi không gian của lãnh hải được mở rộng ra trên cơ sở các yêu sách về lãnh hải rộng 12 hải lý hoặc hơn nữa, đương nhiên sẽ xuất hiện thêm nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến phân định ranh giới lãnh hải như sự hiện diện của các đảo, công trình nhân tạo nổi thường xuyên trên mặt nước biển, hoạt động hàng hải, khai thác tài nguyên,v.v... Vì vậy, điều 12 khoản 1 của Công ước về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp năm 1958, sau đó được nhắc lại đầy đủ trong điều 15 của Công ước Luật biển 1982, quy định: "Khi hai quốc gia có bờ biển nằm tiếp liền hoặc đối diện nhau, không một quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm trên đó cách đều các điểm gần nhất của đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thoả thuận khác. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có những danh nghĩa lịch sử hoặc các hoàn cảnh đặc biệt khác cần xác định ranh giới lãnh hải của hai quốc gia theo cách khác không được trù định trong điều khoản này”.

Một điểm đáng lưu ý là trong Công ước Luật biển 1982 không có những qui định riêng biệt về phân định nội thuỷ và vùng  tiếp giáp lãnh hải. Như vậy, vấn đề đặt ra là các vùng biển này sẽ được phân định như thế nào?

Đối với phân định nội thuỷ việc áp dụng các qui định của điều 15 Công ước Luật biển 1982 đã được chấp nhận cả về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn quốc tế.  Song đối với phân định vùng tiếp giáp lãnh hải thì phức tạp hơn. Mặc dù cho đến nay không còn nhiều quốc gia ven biển qui định vùng tiếp giáp lãnh hải, song nhu cầu phân định vùng biển này giữa các quốc gia cũng như phân định vùng tiếp giáp với vùng đặc quyền kinh tế vẫn được đặt ra và cần phải giải quyết. Vấn đề phân định vùng tiếp giáp lãnh hải trở nên phức tạp hơn khi các điều khoản về vùng biển này được qui định cùng các điều  khoản về lãnh hải trong phần II Công ước Luật biển 1982.

Thực tiễn phân định vùng tiếp giáp lãnh  hải  giữa  các quốc gia trong thời gian gần đây cho thấy các quốc gia về cơ bản đã chấp nhận áp dụng những quy  định về phân định lãnh hải trong điều 15 Công ước luật biển 1982 cho việc phân định vùng tiếp giáp lãnh hải. Ngoài ra, do quy chế pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải gần với vùng đặc quyền kinh tế hơn là với lãnh hải nên trong trường hợp xuất hiện nhu cầu phân định ranh giới giữa vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế, việc áp dụng điều 74 Công ước Luật biển 1982 về phân định vùng đặc quyền kinh tế được coi là hợp lý.

3.2. Phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế được quy định giống nhau trong hai điều 74 và 83 của Công ước Luật biển 1982:

"Phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế (thềm lục địa) giữa các quốc gia có bờ biển nằm tiếp liền hoặc đối diện nhau:

1. Việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế (thềm lục địa) giữa các quốc gia có bờ biển nằm tiếp liền hoặc đối diện nhau được thực hiện bằng con đường thoả thuận theo đúng luật pháp quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của Qui chế Toà án Quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng.

2. Nếu không đi tới được một thoả thuận trong một thời gian hợp lý, các quốc gia hữu quan sử dụng các thủ tục nêu ở phần XV.

3. Trong khi chờ ký kết thoả thuận nói ở khoản 1, các quốc gia hữu quan, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn và để không phương hại hay cản trở việc ký kết các thoả thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này.  Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến việc hoạch định cuối cùng.

4. Khi một điều ước đang có hiệu lực giữa các quốc gia hữu quan, các vấn đề liên quan đến việc  hoạch định ranh giới vùng đặc  quyền kinh tế (thềm lục địa) được giải quyết theo đúng điều ước đó".

Có thể nhận thấy, khác với phân định lãnh hải, Công ước Luật biển 1982 không đưa ra một phương pháp phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế cụ thể nào. Thay vào đó, Công ước nhấn mạnh đến 2 nguyên tắc: “trên cơ sở luật pháp quốc tế” và “giải pháp công bằng”. Như vậy, Công ước đã mở ra khả năng áp dụng rộng rãi tất cả các nguồn của luật pháp quốc tế liên quan đến vấn đề này, kể cả tập quán quốc tế cũng như các án lệ quốc tế và thực tiễn phân định giữa các quốc gia, để đạt được “thoả thuận”.

II. THỰC TIỄN PHÂN ĐỊNH BIỂN GIỮA VIỆT NAM VỚI CÁC QUỐC GIA TRONG KHU VỰC.

Từ năm 1977, sau khi thống nhất đất nước và trở thành thành viên Liên Hợp quốc, Việt Nam bắt đầu tham gia Hội nghị lần thứ 3 của Liên hợp quốc về Luật biển. Việt Nam cũng là một trong 130 nước bỏ phiếu thông qua và sau đó cùng 118 nước khác ký Công ước Luật biển 1982 vào tháng 12/1982 tại Montego Bay  (Jamaica). Ngày 23/6/1994 Quốc hội Việt Nam đã chính thức phê chuẩn và trở thành thành viên thứ 63 của Công ước. Bên cạnh việc được hưởng các quyền lợi, Việt Nam còn có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ cụ thể mà Công ước này mang lại. Cụ thể, Việt Nam có quyền xác định các vùng biển và thềm lục địa theo Công ước nhưng đồng thời cũng có nghĩa vụ tiến hành phân định các vùng biển và thềm lục địa ở những khu vực chồng lấn với các nước trong khu vực.

Cho đến nay, Việt Nam đã phân định được vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với Thái Lan năm 1997, phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc năm 2000, phân định thềm lục địa với Inđônêxia năm 2003. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã thỏa thuận tiến hành hợp tác khai thác chung khu vực thềm lục địa chồng lấn với Malaixia năm 1992.

1. Phân định ranh giới trên biển giữa Việt Nam với Thái Lan.

Vịnh Thái Lan (còn gọi là Vịnh Xiêm) là một vùng biển nửa kín, với diện tích khoảng 300.000 km2, giới  hạn bởi bờ biển 4 nước Thái Lan (1560km), Việt Nam (230 km), Malaixia (150 km) và Campuchia (460 km). Vịnh thông ra Biển Đông ở phía Nam bằng một cửa duy nhất hợp bởi mũi Cà Mau và mũi Trenggranu cách nhau chừng 400 km (215 hải lý). Vịnh khá dài (chừng 450 hải lý) nhưng có diện tích nhỏ, chiều rộng trung bình là 385 km (208 hải lý), có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam về an ninh quốc phòng và kinh tế do có ngư trường rộng lớn và tiềm năng dầu khí. Trong Vịnh có một số đảo quan trọng của hai nước, phía Việt Nam có đảo Phú Quốc, đảo Thổ Chu…, phía Thái Lan có đảo Ko Phangun, Ko Samui...

Năm 1971, Bộ Kinh tế của chính quyền Sài Gòn đã công bố Nghị định về phân lô thăm dò và khai thác dầu khí, qua đó xác định ranh giới ngoài thềm lục địa phía Nam Việt Nam theo đường trung tuyến giữa bờ biển và các đảo xa bờ của Việt Nam (Thổ Chu và Wai - lúc đó chưa được Việt Nam thừa nhận thuộc chủ quyền của Campuchia) với bờ biển của Malaixia và Thái Lan. Năm 1973, Thái Lan ra tuyên bố về ranh giới thềm lục địa của Thái Lan là đường trung tuyến giữa bờ biển và các đảo ven bờ của Thái Lan với bờ biển và đảo Phú Quốc của Việt Nam. Hai yêu sách về thềm lục địa này đã tạo thành một vùng chồng lấn trong Vịnh Thái Lan rộng hơn 6000 km2 cần được phân định.

Từ tháng 9/1992 đến 8/1997 hai bên đã tiến hành 9 vòng đàm phán và thống nhất phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước bằng một đường ranh giới duy nhất. Đàm phán giữa Việt Nam và Thái Lan kết thúc bằng việc Bộ trưởng Ngoại giao hai nước ký Hiệp định về phân định ranh giới trên biển giữa hai nước trong Vịnh Thái Lan ngày 9/8/1997 tại Băng-cốc. Đây là Hiệp định phân định biển đầu tiên của Việt Nam, bao gồm 6 điều khoản với nội dung chính như sau:

- Đường phân chia thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước Việt  Nam-Thái Lan trong Vịnh Thái Lan là một đường thẳng từ điểm C tới điểm K. Điểm C là điểm nhô ra nhất về phía Bắc của khu vực phát triển chung Thái Lan-Malaixia được xác định trong Bản ghi nhớ giữa 2 nước ngày 21/02/1979 và trùng với điểm 43 của đường yêu sách thềm lục địa Malaixia năm 1979. Điểm K nằm trên đường thẳng cách đều đảo Thổ Chu và đảo Wai của CPC, đây là đường “dàn xếp tạm thời” Việt Nam-Campuchia năm 1991. Với kết quả này, Việt Nam được hưởng 1/3 diện tích và Thái Lan được hưởng 2/3 diện tích vùng chồng lấn.

- Trong trường hợp có cấu trúc dầu khí, hoặc mỏ khoáng sản nằm vắt ngang đường ranh giới thì hai bên có trách nhiệm trao đổi thông tin, cùng tìm kiếm thỏa thuận sao cho các cấu trúc hoặc mỏ này được khai thác một cách hiệu quả nhất và chi phí cũng như lợi tức từ việc khai thác sẽ được phân chia một cách công bằng.

- Hai bên cam kết sẽ tiến hành đàm phán với Malaixia về khu vực yêu sách thềm lục địa chồng lấn giữa ba nước, nằm trong vùng phát triển chung Thái Lan-Malaixia.

2. Phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Vịnh Bắc Bộ có diện tích khoảng 126.250 km2 (36.000 hải lý vuông), chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 310 km (176 hải lý), nơi hẹp nhất ở cửa Vịnh rộng khoảng 220 km (119 hải lý). Bờ biển của Vịnh có tổng chiều dài khoảng 1458 km, trong đó bờ biển Việt Nam dài khoảng 763 km và Trung Quốc khoảng 695 km. Vịnh có hai cửa: eo biển Quỳnh Châu nằm giữa bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam với bề rộng khoảng 19 hải lý và cửa chính của Vịnh từ đảo Cồn Cỏ (Việt Nam) tới đảo Hải Nam (Trung Quốc) rộng khoảng 112 hải lý. Phần Vịnh phía Việt Nam có khoảng 2.300 đảo, đá ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch Long Vĩ nằm cách đất liền Việt Nam khoảng 110 km, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 130 km. Phía Trung Quốc chỉ có một số ít đảo nhỏ ở phía Đông Bắc Vịnh như đảo Vị Châu, đảo Tà Dương.

Do chiều rộng của Vịnh Bắc Bộ nơi rộng nhất không đến 200 hải lý và do bờ biển Việt Nam và Trung Quốc chủ yếu nằm đối diện nên theo quy định của Luật biển 1982 (Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên), vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong Vịnh bị “chồng lấn” lên nhau. Ngoài ra, tại khu vực ngoài cửa sông Bắc Luân, nơi bờ biển hai nước nằm tiếp liền nhau, lãnh hải hai nước cũng có sự “chồng lấn” cần được phân định. Như vậy, trong Vịnh Bắc Bộ hai nước phải tiến hành đàm phán để phân định lãnh hải nhằm xác định biên giới trên biển và phân định vùng đặc quyền kinh tế cũng như thềm lục địa nhằm xác định ranh giới các vùng biển này.

Với mong muốn tạo ra và duy trì ổn định trong Vịnh Bắc Bộ, từ đầu những năm 70 của thế kỷ trước Việt Nam đã chủ động đề nghị phía Trung Quốc tiến hành đàm phán để giải quyết tình trạng không rõ ràng này. Vào năm 1974 và từ năm 1977 đến 1978, Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành 2 cuộc đàm phán cấp chính phủ về biên giới, lãnh thổ trong đó có vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ. Tuy nhiên, hai cuộc đàm phán này đã không đạt kết quả nào do lập trường hai bên lúc đó quá khác xa nhau.

Từ năm 1991, cùng với việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, Việt Nam và Trung Quốc đã quyết định thông qua thương lượng để giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ, trong đó có vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ.

Trong 9 năm, từ năm 1992 đến năm 2000, hai bên đã tiến hành cuộc đàm phán lần thứ 3 với 7 vòng đàm phán cấp Chính phủ, 3 cuộc gặp giữa hai Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ, 18 vòng đàm phán cấp chuyên viên và nhiều vòng họp khác của Tổ chuyên viên liên hợp, Tổ chuyên gia đo vẽ, xây dựng Tổng đồ Vịnh Bắc Bộ (tổng cộng 49 vòng họp, trung bình mỗi năm có hơn 5 vòng họp).

Ngày 19/10/1993 hai nước đã ký “Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới - lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc”, trong đó nêu rõ nguyên tắc chỉ đạo đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ như sau: "Hai bên đồng ý sẽ áp dụng luật biển quốc tế và tham khảo thực tiễn quốc tế, để tiến hành đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ. Nhằm đạt thỏa thuận về phân định Vịnh Bắc Bộ, hai bên cần theo nguyên tắc công bằng và tính đến mọi hoàn cảnh hữu quan trong Vịnh để đi đến một giải

Nhân dịp chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Chủ tịch nước Trần Đức Lương, ngày 25/12/2000 tại Bắc Kinh, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao hai nước đã ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ. Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ gồm 11 điều khoản, quy định về một đường phân định nối tuần tự 21 điểm có tọa độ địa lý cụ thể để phân định rõ ràng lãnh hải (từ điểm số 1 đến điểm số 9) và ranh giới chung cho vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa (từ điểm số 9 đến điểm số 21). Phạm vi phân định theo Hiệp định là toàn bộ Vịnh Bắc Bộ với đường đóng cửa vịnh là đường thẳng nối giữa mũi Oanh Ca (đảo Hải Nam, Trung Quốc) qua đảo Cồn Cỏ (Việt Nam) đến một điểm trên bờ biển Việt Nam tại tỉnh Quảng Trị. Hiệp định quy định mỗi bên tiến hành việc thăm dò, khai thác một cách độc lập các tài nguyên khoáng sản trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình. Đối với các mỏ dầu, khí tự nhiên đơn nhất hoặc mỏ khoáng sản khác nằm vắt ngang đường phân định, hai bên phải thông qua hiệp thương hữu nghị để đạt thoả thuận về việc khai thác hữu hiệu nhất cũng như việc phân chia công bằng lợi ích thu được. Theo đường phân định, phía Việt Nam được hưởng 53,23%, phía Trung Quốc được 46,77% diện tích Vịnh. Đường phân định đi cách đảo Bạch Long Vĩ 15 hải lý, tức đảo được hưởng lãnh hải 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 3 hải lý (25% hiệu lực); đảo Cồn Cỏ được hưởng 50% hiệu lực trong phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đây là một kết quả công bằng đạt được trên cơ sở luật pháp quốc tế và điều kiện cụ thể của Vịnh.

3. Phân định ranh giới thềm lục địa giữa Việt Nam với Inđônêxia.

Việt Nam và Inđônêxia có vùng biển và thềm lục địa chồng lấn nằm ở phía Đông Nam Việt Nam và Tây Bắc đảo lớn Borneo của Inđônêxia. Trong khu vực này, đảo xa bờ nhất của Việt Nam là Côn Đảo, cách bờ biển khoảng 90 km. Inđônêxia là quốc gia quần đảo với hơn 17.000 hòn đảo lớn, nhỏ nằm rải rác trên một vùng biển rộng lớn. Đảo xa bờ nhất của Inđônêxia trong khu vực đối diện với Việt Nam là đảo Natuna Bắc, cách đảo lớn Borneo của Inđônêxia khoảng 320 km về hướng Tây Bắc.

Năm 1969, Inđônêxia ra tuyên bố về ranh giới thềm lục địa dựạ trên nguyên tắc không vượt quá đường trung tuyến cách đều đường cơ sở quần đảo của Inđônêxia và đường cơ sở của các quốc gia láng giềng.

Năm 1971, chính quyền Sài Gòn đã vạch ranh giới đặc nhượng dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam, theo đó ranh giới biển giữa Việt Nam và Inđônêxia là đường cách đều bờ biển Việt Nam và bờ biển đảo Borneo của Inđônêxia.

Tuyên bố ngày 12/5/1977 của Chính phủ Việt Nam xác định thềm lục địa của Việt Nam là phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của Việt Nam ra đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Tiếp đó, ngày 12/11/1982, Chính phủ Việt Nam công bố hệ thống đường cơ sở của phần lãnh thổ lục địa Việt Nam, theo đó đảo Côn Đảo được sử dụng làm một điểm cơ sở để vạch hệ thống đường cơ sở thẳng của Việt Nam.

Xuất phát từ sự khác nhau giữa các tuyên bố về ranh giới thềm lục địa của Inđônêxia năm 1969 và của chính quyền Sài Gòn năm 1971 nên ngay từ năm 1972 hai bên đã tiến hành đàm phán phân định thềm lục địa. Trong đàm phán, Inđônêxia đưa ra yêu sách đường trung tuyến giữa hai đường cơ sở (Inđônêxia sử dụng đường cơ sở quần đảo), thực chất là khoảng cách giữa đảo Natuna Bắc của Inđônêxia và Côn Đảo của Việt Nam (còn gọi là trung tuyến đảo-đảo). Chính quyền Sài Gòn đề nghị phân định theo đường trung tuyến giữa hai bờ biển Việt Nam và bờ biển đảo lớn Borneo Bắc (Calimantan) của Inđônêxia (gọi là trung tuyến bờ-bờ). Hai đường trung tuyến này tạo thành vùng chồng lấn rộng khoảng 40.000 km2. Hai bên không đạt được thỏa thuận nào.

Sau khi thống nhất đất nước, tháng 6/1978, Việt Nam và Inđônêxia bắt đầu đàm phán về phân định thềm lục địa với Inđônêxia. Đàm phán phân định thềm lục địa giữa Việt Nam và Inđônêxia là một quá trình dài xuất phát từ những yếu tố khách quan (Việt Nam là lãnh thổ lục địa, Inđônêxia là quốc gia quần đảo) lẫn chủ quan (lập luận và việc vận dụng luật biển quốc tế của hai bên). Sau 25 năm đàm phán, với 2 vòng đàm phán cấp Chính phủ, 22 vòng họp cấp chuyên viên (10 vòng chính thức và 12 vòng không chính thức), bốn cuộc họp họp giữa 2 Trưởng đoàn đàm phán cấp chuyên viên, hai bên cuối cùng đã đi đến được một giải pháp cùng chấp nhận được. Ngày 26/6/2003, Hiệp định giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Inđônêxia về phân định thềm lục địa giữa hai nước đã được ký chính thức nhân dịp chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Megawati. Hiệp định phân định thềm lục địa Việt Nam - Inđônêxia có nội dung tương tự như những Hiệp định phân định biển trên thế giới cũng như 2 Hiệp định phân định biển mà Việt Nam đã ký trước đó với Thái Lan và Trung Quốc. Hiệp định bao gồm 6 điều, với nội dung chủ yếu sau:

- Đường phân định được xác định bằng các đoạn thẳng nối tuần tự 6 điểm có tọa độ địa lý cụ thể, Hiệp định này chỉ phân định ranh giới thềm lục địa, không ảnh hưởng đến bất kỳ hiệp định nào sẽ được ký trong tương lai về phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước.

- Hai bên tham khảo ý kiến của nhau nhằm phối hợp chính sách phù hợp với luật pháp quốc tế về bảo vệ môi trường biển.

- Đối với các cấu tạo mỏ dầu khí hoặc mỏ khoáng sản khác dưới đáy biển nằm vắt ngang qua đường phân định thềm lục địa, hai bên sẽ thông báo cho nhau các thông tin liên quan cũng như thỏa thuận về cách thức khai thác hữu hiệu nhất các cấu tạo hoặc mỏ nói trên và về việc phân chia công bằng lợi ích từ việc khai thác.

4. Hợp tác khai thác chung thềm lục địa chồng lấn Việt Nam – Malaixia.

Giữa Việt Nam và Malaixia tồn tại một vùng chồng lấn thềm lục địa rộng khoảng 2.800 km2. Vùng này hình thành bởi đường ranh giới thềm lục địa do chính quyền Sài Gòn công bố năm 1971 và đường ranh giới thềm lục địa thể hiện trên hải đồ của Malaixia công bố năm 1979. Sở dĩ có sự khác nhau đó là do chính quyền Sài Gòn có tính đến đảo Hòn Khoai, các đảo của cả hai bên, còn Malaixia chỉ tính đến các đảo ven bờ của mình mà bỏ qua Hòn Khoai của Việt Nam (đảo Hòn Khoai cách bờ 6,5 hải lý). Đây là khu vực chồng lấn có diện tích không lớn nhưng có tiềm năng về dầu khí. Xuất phát từ nhu cầu khai thác dầu khí phục vụ phát triển của hai nước và thực tế là diện tích vùng chống lấn không lớn, ngày 05/6/1992, tại cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng ngoại giao tại Kuala Lămpua, hai bên đã ký Bản thỏa thuận (Memorandum of Understanding - MOU) về hợp tác thăm dò khai thác chung vùng chồng lấn với nội dung:

- Hai bên chính thức xác nhận tọa độ khu vực chồng lấn theo đường ranh giới thềm lục địa do Tổng cục Dầu khí Việt Nam công bố năm 1977 (trùng với yêu sách thềm lục địa do chính quyền Sài Gòn công bố năm 1971) và đường ranh giới thềm lục địa thể hiện trên hải đồ của Malaixia công bố năm 1979.

- Hai bên đồng ý tạm gác vấn đề phân định thềm lục địa để hợp tác tay đôi thăm dò và khai thác dầu khí trong khu vực xác định này theo các nguyên tắc sau:

+ Chia sẻ đồng đều chi phí và phân chia đồng đều lợi nhuận;

+ Các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí sẽ được Petronas (Malixia) và PetroVietnam (Việt Nam) tiến hành trên cơ sở dàn xếp thương mại sau khi được Chính phủ hai bên phê chuẩn,

+ Thỏa thuận này không làm phương hại tới lập trường cũng như đòi hỏi của mỗi bên đối với khu vực chồng lấn.

- Mỏ dầu khí có một phần nằm vắt ngang sang khu vực xác định và một phần nằm bên thềm lục địa của Malaixia hoặc Việt Nam thì hai bên sẽ thỏa thuận để thăm dò khai thác.

Sau khi thỏa thuận có hiệu lực, hai công ty dầu khí quốc gia của hai nước đã ký kết các dàn xếp thương mại và triển khai các hoạt động thăm dò khai thác dầu khí trong khu vực chồng lấn giữa hai nước. Từ năm 1997, những thùng dầu đầu tiên khai thác từ vùng chồng lấn đã được xuất khẩu và lợi nhuận bắt đầu được chia đều cho hai bên theo đúng thỏa thuận. Hiện nay, các giếng dầu trong vùng khai thác chung này vẫn đang tiếp tục hoạt động có hiệu quả.

Như vậy, trong thời gian qua, đặc biệt là sau khi Công ước Luật biển 1982 có hiệu lực, Việt Nam đã giải quyết được một loạt vấn đề về phân định biển với các quốc gia láng giềng. Các hiệp định được ký kết thể hiện thiện chí của Việt Nam trong việc đàm phán trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng, góp phần vào việc ngăn ngừa xung đột, giúp duy trì môi trường hòa bình và ổn định trong khu vực để Việt Nam và các nước khác phát triển. Xét về mặt pháp luật quốc tế, các giải pháp phân định biển đạt được giữa Việt Nam và các nước láng giềng cũng có những đóng góp nhất định đối với thực tiễn phân định biển trong khu vực, là cơ sở để Việt Nam tiếp tục đàm phán phân định biển với các nước láng giềng khác trong khu vực.

Tài liệu tham khảo:

1. Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển. Nxb Tp. Hồ Chí Minh. Tp. Hồ Chí Minh 1996.

2. Trường ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế. Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội 2004.

3. Đỗ Hoà Bình. Phân định biển theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 và thực tiễn Việt Nam. Tham luận tại hội thảo Chính sách pháp luật về biển và sự phát triển bền vững. Hạ Long 7/2005.

4. TS. Nguyễn Hồng Thao: “Những điều cần biết về luật biển”, NXB CA nhân dân năm 1997, tr23./.s

Tin mới hơn

Tin cũ hơn