Văn hóa, con người Việt Nam là động lực, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước. Liên hệ với thực tiễn tại tỉnh Thái Nguyên

TS. Nguyễn Thị Thu Thủy

Bộ môn CNML, Khoa KHCB & ƯD

I.                   MỞ ĐẦU

   Cuối thế kỷ XX, Tổng Giám đốc UNESCO F.Mayor đã nhấn mạnh: Kinh nghiệm của hai thập kỷ qua cho thấy rằng, trong mọi xã hội ngày nay, bất luận ở trình độ phát triển kinh tế nào hoặc theo xu hướng chính trị nào, văn hóa và phát triển là hai mặt gắn liền với nhau... Hễ nước nào tự đặt ra cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yểu rất nhiều. Một sự phát triển chân chính đòi hỏi phải sử dụng một cách tối ưu nhân lực và vật lực của mỗi cộng đồng. Vì vậy phân tích đến cùng, các trọng tâm, các động lực và các mục đích của phát triển phải được tìm trong văn hóa. Trong mọi quá trình phát triển thì văn hóa phải trở thành ngôi sao dẫn đường cho mọi quá trình phát triển.

Trong bối cảnh thế giới biến đổi nhanh và mạnh mẽ, những nhận thức mới về giá trị văn hóa để phát triển bền vững ngày càng được định hình rõ nét. Một trong những giá trị được đề cao, coi trọng, được đánh giá là nền tảng vững bền cho sự phát triển của tất cả các quốc gia chính là giá trị văn hóa dân tộc - một nguồn lực to lớn, là một phần quan trọng trong tổng thể sức mạnh nội sinh của mỗi dân tộc, quốc gia.

Hiện nay, khi hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra mạnh mẽ, vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc đặc sắc ngày càng trở nên quan trọng đối với các quốc gia, dân tộc. Quốc gia, dân tộc nào gìn giữ được bản sắc văn hóa sẽ có điều kiện trở thành đất nước mạnh, ngược lại, nếu đánh mất bản sắc sẽ trở thành dân tộc bị lệ thuộc. Sự lệ thuộc văn hóa chính là con đường ngắn dẫn đến lệ thuộc về kinh tế, từ đó dẫn đến lệ thuộc về chính trị.

Trong phát biểu chỉ đạo Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII diễn ra sáng ngày 24 tháng 11 năm 2021 tại Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã nhấn mạnh yêu cầu: Phát huy cao độ những giá trị văn hoá, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước.

Chính vì những lý do trên, trong phạm vi bài viết này, tôi lựa chọn chủ đề: Văn hóa, con người Việt Nam là động lực, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước để từ đó liên hệ với thực tiễn xây dựng văn hóa, con người Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong giai đoạn hiện nay.

II. NỘI DUNG

1. Một số khái niệm cơ bản

Thuật ngữ “văn hóa” xuất hiện rất sớm trong ngôn ngữ nhân loại và tùy từng góc độ tiếp cận, mục tiêu, nghiên cứu khác nhau mà người ta đưa ra rất nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa. Tổng hợp lại, theo nghĩa rộng, văn hóa được hiểu là toàn bộ những gì “phi tự nhiên”. Văn hóa là không gian trí tuệ của loài người, bao gồm hệ thống tri thức, kinh nghiệm, hiểu biết, các quan niệm về tự nhiên, xã hội và con nguời của nhân loại trong lịch sử. Theo nghĩa hẹp, văn hóa được cho là phong tục, tập quán, hành vi, thói quen sinh hoạt của cá nhân con người và cộng đồng xã hội trong cuộc sống thường ngày. Văn hóa thể hiện “căn tính”, bản sắc, bản lĩnh và phong cách của một quốc gia, dân tộc.

Phát triển văn hóa là một quá trình có tính tất yếu khách quan trong sự vận động của các lĩnh vực văn hóa. Quá trình này dẫn tới sự biến đổi giá trị và hệ giá trị văn hóa. Có thể nói, phát triển văn hóa là hoạt động của chủ thể văn hóa tác động làm nảy sinh những giả trị mới của nền văn hóa về quy mô và chất lượng theo hướng chân, thiện, mỹ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần dân tộc, khoa học, nhân văn, dân chủ, tiến bộ, thúc đẩy toàn bộ các lĩnh vực hoạt động văn hóa, tạo ra các điều kiện và cơ hộỉ cho con người tham gia vào quá trình sáng tạo, sản xuất, truyền bá, đánh giá và thưởng thức các giá trị văn hóa, tạo môi trường văn hóa lành mạnh làm động lực thúc đẩy quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ những hoạt động văn hóa đó, con người được phát triển nhân cách, hình thành phẩm chất, năng lực đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Khi nói đến phát triển nền văn hóa Việt Nam có nghĩa là nói đến phát triển toàn diện và đồng bộ các yếu tố cấu thành nền vãn hóa dân tộc bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, từ văn hóa vật chất đến văn hóa tinh thần, từ văn hóa cá nhân đến văn hóa gia đình và cộng đồng, từ vãn hóa chính trị đến văn hóa giáo dục, từ văn hóa nghệ thuật, văn hóa khoa học tới văn hóa thẩm mỹ…

Khái niệm phát triển bền vững con người lần đầu tiên được sử dụng trong Báo cáo phát triển con người năm 1994 của UNDP với hàm ý là sự phát triển bình đẳng trong cơ hội tiếp cận và nâng cao năng lực, mở rộng quyền lựa chọn và đảm bạo công bằng trong chia sẻ phúc lợi do tăng trưởng kinh tế mang lại cho mọi người trong hiện tại và giữa các thế hệ, không phân biệt tôn giáo, dân tộc, sắc tộc (UNDP, 1994).

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam...; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chê của con người Việt Nam”[1].

Động lực hiểu chung nhất là trạng thái nội tại của con người để hướng dẫn và chỉ đạo hành vi của con người hướng tới sự thỏa mãn, đó là một chuỗi các nhu cầu, khuynh hướng, ham muốn, kích thích và khiến người đó thực hiện một hành vi nào đó một cách tích cực nhất. Động lực để phát triển đất nước được hiểu  những tiền đề quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, phát triển sáng tạo, phát triển đất nước theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu xây dựng một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.

Sức mạnh nội sinh được hiểu là sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia, được cấu thành từ hai nguồn: sức mạnh cứng (gồm trữ lượng tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nguồn lao động, tiềm lực về kinh tế, quốc phòng, an ninh,…) và sức mạnh mềm (thể chế chính trị, truyền thống lịch sử - văn hóa, sức sáng tạo của con người, hệ giá trị và chính sách của quốc gia). Nguồn lực nội sinh do cộng đồng dân tộc, quốc gia tự sản sinh, bồi đắp trong chiều dài lịch sử, qua sự tương tác, cải tạo thế giới tự nhiên. Đồng thời đó cũng là kết quả của quá trình không ngừng học tập, trau đồi, tiếp thu tri thức, thành tựu văn minh nhân loại để kết thành hệ giá trị, nguồn lực nội sinh của mình. Như vậy, nguồn lực nội sinh là kết quả của quá trình sáng tạo bền bỉ về vật chất và tinh thần của người dân mỗi quốc gia trong quá trình tương tác với thế giới tự nhiên, xã hội, được biểu hiện phong phú qua nhiều dạng thức (tiềm lực kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, giáo dục, văn hóa,…), tạo nên sức mạnh tổng hợp, đáp ứng tốt nhu cầu sinh tồn của người dân và sự phát triển của mỗi dân tộc. Trong tương quan với nguồn lực ngoại sinh thì nguồn lực nội sinh có vai trò, vị trí quan trọng, quyết định đến sự phát triển của quốc gia; là yếu tố nền tảng, kiến tạo bản sắc văn hóa dân tộc.

2. Vai trò của văn hóa trong phát triển đất nước

Nghị quyết hội nghị lần thứ V Ban chấp hành  Trung ương Đảng khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong đó đã nhấn mạnh đến vai trò của văn hóa trong phát triển đất nước đó là quan điểm đầu tiên: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.

Xây dựng văn hóa là xây dựng, củng cố đời sống tinh thần xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ lành mạnh không thể có sự phát triển kinh tế xã hội bền vững.

Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa. Văn hóa là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.

Văn hóa là mục tiêu phát triển của kinh tế - xã hội và của đất nước. Văn hóa thể hiện trình độ được vun trồng ngày càng cao, ngày càng toàn diện của con người và của xã hội, khiến con người, xã hội ngày càng đổi mới tiến bộ, tiến tới cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng được bồi dưỡng phát huy và trở thành hệ giá trị cao đẹp và chuẩn mực của toàn xã hội. Mục đích này là khát vọng của toàn nhân loại. Đây cũng là mục tiêu lý tưởng phấn đấu của chủ nghĩa xã hội khoa học. Văn hóa là động lực phát triển vì văn hóa kết tinh, khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người. Văn hóa là hệ điều tiết của sự phát triển. Văn hóa phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách quan, chủ quan, của các điều kiện bên trong và bên ngoài đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Từ nhận thức sâu sắc nội hàm của văn hóa và vai trò của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã tạo cơ sở lý luận cho Đảng ta trong Nghị quyết Trung ương 9 đã bổ sung, phát triển 3 quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương 5 là: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu động lực phát triển bền vững đất nước; Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng: Dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

3. Văn hóa, con người Việt Nam là động lực, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước

Trong thế kỷ XXI, nguồn gốc của sự giàu có không chỉ là tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật mà yếu tố ngày càng có ý nghĩa quan trọng và quyết định là nguồn lực văn hóa, con người, cụ thể là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm lực sáng tạo này nằm trong văn hóa, trong trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, nhân cách, lối sống, thị hiếu thẩm mỹ, ý chí, nghị lực và sự thành thạo kỹ năng, phát triển tài năng của cá nhân và cả cộng đồng. Con người được coi là nguồn tài nguyên đặc biệt quan trọng của một quốc gia, dân tộc.

Trên thế giới, không ít quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên hạn hẹp nhưng lại có nền kinh tế rất phát triển, xã hội văn minh chính là nhờ coi trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhân tài, thực sự đề cao vai ưò động lực văn hóa, con người trong phát triển. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, chính là sự đề cao vai trò nguồn lực văn hóa trong phát triển đất nước. Chính vì vậy, hệ thống di sản văn hóa, các giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và hiện đại luôn được quan tâm và được coi là nguồn vốn quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đánh giá về sức mạnh to lớn của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, ngay từ năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Năm 2014, trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Đảng ta nhấn mạnh cần phải xây dựng văn hóa, con người Việt Nam để “văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”[2]. Theo đó, Đảng ta xác định rõ: phải coi văn hóa ngang hàng với kinh tế, coi văn hóa ngang hàng với chính trị, theo đó cần phải chú trọng xây dựng văn hóa trong chính trị và xây dựng văn hóa trong kinh tế. Trong xây dựng văn hóa phải lấy việc chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp làm cốt lõi, trọng tâm với các đặc tính cơ bản là: trung thực, trí tuệ, nhân văn, tự chủ, sáng tạo. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, đội ngũ trí thức có vai trò quan trọng. Đây là sự nghiệp cách mạng lâu dài cần được tiến hành tích cực, sáng tạo, kiên trì và thận trọng.

Nếu như mọi giá trị văn hóa được thấm sâu vào toàn bộ đời sống con người, thẩm thấu vào tất cả các lĩnh vực xã hội thì đó chính là nguồn sức mạnh đặc biệt thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước và dân tộc. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh quan điểm mới về phát huy vai trò của văn hóa, con người - nguồn sức mạnh nội sinh to lớn đối với sự phát triển. Cụ thể là, cần phải Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ che, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”[3].

Vấn đề quan trọng hàng đầu là mọi chính sách để phát triển đất nước phải luôn hướng tới nâng cao đời sống và đem lại hạnh phúc của nhân dân. Văn hóa, con người Việt Nam với sức mạnh của tinh thần yêu nước, lòng tự hào và ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị sẽ là động lực và nguồn lực nội sinh quan trọng để phát triển bền vững đất nước, hướng tới một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc.

Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trên phạm vi cả nước cần nhanh chóng quán triệt và triển khai thực hiện quan điểm lý luận mới về phát huy vai trò của văn hóa, con người Việt Nam trong phát triển đất nước được xác định trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là: phát triển toàn diệnđồng bộ; phát triển nhanhbền vững, phát huy mạnh mẽ nguồn lực nội sinh văn hóa, con người Việt Nam; “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Để đảm bảo thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát nêu trên, đòi hỏi chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ biện chứng giữa văn hóaphát triển.

Nhà nước cần đầu tư thỏa đáng hơn nữa cho các lĩnh vực vãn hóa cần thiết như: giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn học, nghệ thuật, các lĩnh vực truyền thông đại chúng (đặc biệt là phát thanh, truyền hình, Internet, báo in, báo điện tử, xuất bản sách, thông tin, quảng cáo, các mạng xã hội...), đẩy mạnh họạt động giao lưu văn hóa trong và ngoài nước, tiếp tục hoàn thiện các thể chế và thiết chế văn hóa hướng tới sự phát triển. Tiếp tục nâng cao hơn nữa về nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về vị trí, tầm quan trọng, vai trò và sức mạnh đặc biệt của văn hóa, con người Việt Nam trong phát triển; phải coi đầu tư cho văn hóa, cho con người là đầu tư cho chiến lược phát triển lâu dài, hướng đến sự phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc.

4. Thực trạng xây dựng văn hóa, con người Việt Nam hiện nay

4.1. Thành tựu

Sau 35 năm đổi mới, đặc biệt là từ khi đẩy mạnh việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về văn hóa như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa VII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, sự nghiệp xây dựng nền văn hóa và phát triển con người Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng.

Nhận thức về vai trò của văn hóa và con người ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn. Các lĩnh vực, loại hình và sản phẩm văn hóa phát triển đa dạng. Các hoạt động, sinh hoạt văn hóa được tổ chức rộng khắp, sôi nổi từ Trung ương đến địa phương và cơ sở dân cư. Công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, các di sản văn hóa được quan tâm đẩy mạnh. Nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, di sản thiên nhiên và di sản ký ức thế giới được công nhận, bảo tồn, tôn tạo, gắn kết với phát triển du lịch. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa đã phát huy tác động tích cực, thu hút đa dạng các nguồn lực xã hội để xây dựng và phát triển văn hóa. Nhiều chủ trương, biện pháp, phong trào đã được thực hiện để nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng môi trường văn hóa trong cộng đồng dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, đạt được kết quả tích cực. Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa gắn với Cuộc vận động xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, xây dựng nếp sống và văn hóa ứng xử nơi công cộng bước đầu có hiệu quả thiết thực, góp phần quan trọng vào đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong đời sống xã hội.

Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, ngày càng phong phú, đa dạng. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục “thể thao đã thu hút được đông đảo nhân dân tham gia. Công tác phát triển và quản lý các hoạt động thông tin, truyền thông được đẩy mạnh. Thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ, đa dạng. Hệ thống báo chí được quy hoạch lại theo hướng tinh gọn, nâng cao chất lượng. Công tác xuất bản, in ấn, phát hành được quản lý tốt hơn, đáp ứng nhu cầu lành mạnh của xã hội. Hệ thống thiết chế văn hóa được đầu tư và từng bước chuyển đổi cơ chế, đổi mới về phương thức hoạt động. Nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế được coi trọng và bước đầu phát huy được hiệu quả. Việc thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa và phát triển thị trường văn hóa đã có chuyển biển. Hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới và tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới được thực hiện chủ động, tích cực và đạt nhiều kết quả tốt.

Nhận thức của Đảng, Nhà nước và xã hội về phát triển toàn diện con người được chú trọng. Phát triển toàn diện con người được xác định là trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu để xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Trong đó, trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách. Trung ương và địa phương đã ban hành các văn bản chỉ đạo, quản lý tạo cơ sở pháp lý và điều kiện để các tổ chức trong xã hội tập trung trí tuệ, công sức xây dựng con người. Tầm vóc và thể lực con người Việt Nam đã được nâng lên. Các chuẩn mực tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của con người thời đại Hồ Chí Minh đã được đưa vào một số văn bản pháp luật, vào quy ước, hương ước làng, xã; vào quy chế, quy định, nội dung, quy tắc của cơ quan, đơn vị, tổ chức... Tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tính tích cực xã hội, trách nhiệm công dân được đề cao. Các giá trị đạo đức truyền thống được giữ gìn, phát huy và thay đổi theo hướng phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Các phong trào khởi nghiệp, xây dựng con người, phong trào thiện nguyện gắn với phong trào thi đua yêu nước được đẩy mạnh, vấn đề thực hiện quyền con người trên tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội được coi trọng và đảm bảo bằng luật pháp, trong đó có các quyền về văn hóa của công dân.

4.2. Hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong thời gian vừa qua vẫn còn một số hạn chế, yếu kém sau:

Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững.

Chưa xác định đúng vai trò, vị trí của văn hóa trong xây dựng con người, có chiều hướng nhấn mạnh chức năng giải trí, coi nhẹ chức năng nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ của văn hóa.

Đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao.

Quản lý nhà nước về văn hóa, nghệ thuật, thông tin, truyền thông còn nhiều lúng túng, chậm trễ trong việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về văn hóa.

Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển văn hóa trong thời kỳ mới.

Tình trạng môi trường văn hóa bị xuống cấp, bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực, sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong gia đình, nhà trường, cơ quan, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư... gây bức xúc xã hội kéo dài chậm được giải quyết, ngăn chặn, đẩy lùi.

Một số cơ quan quản lý báo chí có biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích, quản lý mạng xã hội còn bất cập.

Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ở một số nơi còn nghèo, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân ở các vùng, miền, còn chênh lệch lớn.

Việc giới thiệu, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài và tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới còn nhiều hạn chế, bất cập.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, yếu kém trên, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu: Thứ nhất, một số cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức xã hội và một bộ phận nhân dân chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò quan trọng của việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người đối với sự phát triển bền vững đất nước. Vị trí, vai trò của vãn hóa, xây dựng con người chưa được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; Thứ hai, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý chưa thực sự đổi mới, nhất là trong công tác xây dựng, đào tạo, bố trí cán bộ làm công tác văn hóa. Việc thực hiện nêu gương của một số cán bộ, đảng viên ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn hình thức, chưa tạo được sự chuyển biến tích cực, mạnh mẽ; Thứ ba, hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về văn hóa còn bất cập, chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn; Thứ tư, chưa phát huy mạnh mẽ được sức mạnh tổng hợp của các chủ thể văn hóa; chưa khơi dậy, khích lệ, động viên được tính tích cực xã hội của nhân dân, nhất là đội ngũ trí thức, vãn nghệ sĩ, đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa trong quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa; Thứ năm, công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để hình thành cơ sở lý luận, đúc kết hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam còn chậm, lúng túng, bị động. Đây là một số nguyên nhân chủ quan cần sớm được khắc phục để tạo động lực mới cho quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

5. Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, cần quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối phát triển văn hóa và con người mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Kết luận số 76-KL/TW ngày 4-6-2020 của Bộ Chính trị khóa XII về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Đồng thời cần tập trung thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xác định rõ xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị. Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tỉnh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa…

Hai là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về xây đựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông; Đẩy mạnh việc cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng thành chương trình, đề án cụ thể, sát thực tiễn. Rà soát, hoàn thiện các văn bán pháp luật, quản lý hiện hành có liên quan; sửa đổi, bổ sung những nội dung không còn phù hợp. Chú trọng đảm bảo quyền tác giả và các quyền liên quan phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam; Đổi mới phương thức quản lý phù. hợp với từng đối tượng, lĩnh vực và địa bàn cụ thể; Bổ sung chính sách văn hóa trong kinh tế và chính sách kinh tế trong văn hóa, ứng xử hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa. Có chính sách văn hóa đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số; Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Thúc đẩy cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực văn hóa; Tăng cường công tác thanh tra văn hóa. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức xã hội, cộng đong dân cư và công dân với việc tổ chức, quản lý hoạt động vãn hóa; Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Ngăn chặn có hiệu quả tình trạng một bộ phận báo chí, xuất bản, văn học, nghệ thuật hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích, sản phẩm lệch lạc, thị hiếu tầm thường.

Ba là, tỉếp tục đẩy mạnh xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ làm văn hóa. Coi trọng cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu đàn, cán bộ cơ sở; Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế; Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, trọng dụng người có tài, có đức. Điều chỉnh chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù…

Bốn là, tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa. Tăng mức đầu tư của Nhà nước cho văn hóa tương đương với mức tăng trưởng kinh tế. Sử dụng hiệu quả, công khai, minh bạch nguồn đầu tư của Nhà nước, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và một số loại hình nghệ thuật truyền thống cần bảo tồn và phát huy; Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa, xây dựng con người; Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế, phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt là những vùng khó khăn. Khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học, nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản; Ưu tiên xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm chất lượng cao và một số ngành công nghiệp văn hóa chủ đạo, có khả năng dẫn dắt các hoạt động văn hóa. Xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hóa ở các địa phương, cơ quan, doanh nghiệp, khu dân cư, khu công nghiệp... phù hợp (thư viện, nhà văn hóa, công trình thể thao, công viên…; Tăng cường đầu tư để đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nâng cao khả năng dự báo và định hướng phát triển văn hóa, xây dựng con người.

Đây là các giải pháp cơ bản và cấp thiết cần được tiến hành đồng bộ trong quá trình thực hiện xây dựng, phát triển văn hóa, con người ở nước ta trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, cần phải căn cứ vào điều kiện, đặc điểm và hoàn cảnh thực tiễn của tưng ngành, từng địa phương để vận dụng sáng tạo các giải pháp này, tạo nên sự phát triển thống nhất và đa dạng về văn hóa, con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

6. Liên hệ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững

Thái Nguyên là một tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống, với những nét văn hóa đặc trưng, mang đậm dấu ấn văn hóa của người Việt, chính điều đó đã góp phần tạo cho mảnh đất này có một kho tàng văn hóa phong phú và đa dạng. Thái Nguyên không chỉ được biết đến là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, “Thủ đô kháng chiến” của cả nước mà còn là vùng đất lưu giữ nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như: hệ thống các di tích lịch sử văn hóa mang đậm nghệ thuật kiến trúc của người Việt, các danh lam, thắng cảnh nổi tiếng, những nét văn hóa đặc sắc của đồng bào các tộc người thiểu số như: Mông, Dao, Tày, Nùng, Sán Chay, Sán Dìu, Hoa... đã tạo nên kho tàng di sản văn hóa vô cùng phong phú, đặc sắc, trở thành nguồn lực quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên. Trong đó, có nhiều di sản văn hóa mang nét văn hóa đặc trưng riêng của Thái Nguyên như: Di chỉ khảo cổ học hậu kỳ thời đại đá cũ Thần Sa (xã Thần Sa, huyện Võ Nhai), với niên đại sớm nhất khoảng trên dưới 40.000 năm, khác và sớm hơn văn hóa Sơn Vi; Di tích lịch sử và thắng cảnh Đền Đuổm (Phú Lương) gắn với tên tuổi vị anh hùng Dương Tự Minh thời Lý; Danh lanh thắng cảnh Chùa Hang; Di tích lịch sử Danh lanh thắng cảnh núi Văn, núi Võ (huyện Đại Từ) gắn với danh nhân Lưu Nhân Chú; Di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa gắn liền với cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược hào dùng của dân tộc.

Xác định rõ quan điểm chỉ đạo của Đảng “Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện là một mục tiêu của chiến lược phát triển đất nước”. Kế thừa, phát huy giá trị văn hóa, lịch sử của đất nước, từ khi thành lập và nhất là sau 25 năm tái lập tỉnh Thái Nguyên (ngày 01/01/1997) đến nay, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên luôn quan tâm xây dựng và phát triển văn hóa, con người Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới.

Quán triệt thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” (Nghị quyết số 33-NQ/TW), các cấp ủy đảng tỉnh Thái Nguyên đã quan tâm tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, cụ thể hóa bằng kế hoạch, chương trình hành động với các nhiệm vụ, giải pháp phát triển văn hóa, xây dựng con người trên địa bàn tỉnh phù hợp trong giai đoạn mới; chú trọng phát triển, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nét văn hóa đặc trưng của địa phương và đạt được kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị của tỉnh trong sạch, vững mạnh.

Những năm qua, Thái Nguyên đã triển khai đồng bộ các giải pháp để xây dựng, phát triển văn hóa, con người một cách toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của tỉnh và đất nước. Trong đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân làm nền tảng trong công tác xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) và việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Triển khai thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, phòng, chống tệ nạn xã hội, xóa đói giảm nghèo; bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị; tuyên truyền giáo dục, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân.

Công tác xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh được quan tâm chỉ đạo thực hiện, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; chất lượng xây dựng gia đình văn hóa ngày càng nâng lên, đã xây dựng được nhiều mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu; các hủ tục lạc hậu, tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ nạn ma tuý từng bước được đẩy lùi, góp phần làm trong sạch môi trường văn hoá, tạo điều kiện cho kinh tế, xã hội phát triển toàn diện và bền vững. Phong trào Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại tiếp tục được đẩy mạnh, nhất là trong cán bộ, đảng viên, công chức, lực lượng vũ trang, học sinh, sinh viên. Tỷ lệ người dân tham gia tập thể dục, thể thao thường xuyên được nâng lên; 100% số trường học các cấp đảm bảo công tác giáo dục thể chất có chất lượng; 100% cán bộ chiến sĩ quân đội, công an rèn luyện thân thể thường xuyên… Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được triển khai hiệu quả gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; việc xây dựng các hương ước, quy ước làng, xóm, cụm dân cư, khối phố văn hóa được các địa phương chú trọng thực hiện, đảm bảo đúng quy định; hằng năm tỷ lệ cơ quan, đơn vị đạt văn hóa và gia đình văn hóa đều đạt trên 90%. Qua đó, đã có tác động tích cực đến đời sống văn hóa ở cơ sở, cổ vũ các phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân.

Công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích văn hóa, lịch sử ngày càng được quan tâm, nhất là việc huy động nguồn lực tham gia của xã hội. Đến nay, Thái Nguyên có 17 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; 247 di tích được xếp hạng (trong đó, có 01 di tích được xếp hạng quốc gia đặc biệt, 46 di tích được xếp hạng di tích quốc gia, 200 di tích được xếp hạng di tích cấp tỉnh). Việc sưu tầm, bảo tồn các làng nghề thủ công truyền thống, làng văn hóa dân tộc gắn với phát triển du lịch được cấp ủy đảng, chính quyền các cấp chú trọng. Các đơn vị, địa phương trong tỉnh đã triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên góp phần bảo tồn một số văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh có nguy cơ mai một.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, lĩnh vực văn hóa của tỉnh vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như: một số cấp uỷ, chính quyền nhận thức chưa đầy đủ về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển văn hóa, con người đối với sự phát triển của tỉnh, của đất nước nên công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý có lúc, có nơi chưa thường xuyên, liên tục. Còn có cán bộ, đảng viên biểu hiện tiêu cực, thiếu gương mẫu trong đạo đức, lối sống và trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Mặt trái nền kinh tế thị trường, sự phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin - truyền thông, hội nhập quốc tế sâu rộng, sản phẩm văn hóa độc hại, dịch bệnh diễn biến phức tạp, lối sống thực dụng tác động mạnh mẽ vào các tầng lớp xã hội, nhất là đối với thanh, thiếu niên.

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm được Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế”; đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu “phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Thời gian tới, để tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa, con người Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, tỉnh Thái Nguyên sẽ triển khai đồng bộ một số nhiệm vụ giải pháp trọng tâm sau:

Một là, cấp ủy đảng, chính quyền các cấp tiếp tục quán triệt nhằm nâng cao nhận thức đầy đủ hơn về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Hai là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lĩnh vực văn hóa; rà soát, bổ sung và điều chỉnh các quy hoạch, kế hoạch phát triển văn hóa, con người của tỉnh phù hợp với thực tiễn địa phương và đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh, đất nước, phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc tỉnh Thái Nguyên.

Ba là, huy động các nguồn lực nhà nước và xã hội hóa nhằm đầu tư xây dựng, phát triển văn hóa, con người. Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để nâng cao khả năng dự báo và định hướng phát triển văn hóa, xây dựng con người tại địa phương.

Bốn là, đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống; tuyên truyền, thực hiện có hiệu quả chủ trương chuyển đổi số của tỉnh; vận động cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân thực hiện nghiêm Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội.

Năm là, thường xuyên, phối hợp thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, Chương trình số 30-CTr/TU và các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Trung ương, tỉnh nhằm phát hiện các gương người tốt, việc tốt, nhân tố điển hình tiêu biểu và kịp thời, giải quyết những vụ việc khó khăn, vướng mắc, phức tạp...

    

image 20211214155213 1

 Những năm qua, tỉnh Thái Nguyên luôn chú trọng đẩy mạnh công tác đối ngoại, các hoạt động ngoại giao nhân dân. Trong ảnh: Giao lưu văn hóa, văn nghệ giữa các nghệ sĩ Malaysia và Việt Nam tại vùng chè Tân Cương (T.P Thái Nguyên). Ảnh: T.L

Một số hình ảnh về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa, con người Thái Nguyên

 

KẾT LUẬN

Lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam đã chứng minh vai trò đặc biệt của văn hóa, con người Việt Nam - đã mang lại sức mạnh diệu kỳ giúp dân tộc ta sinh tồn và phát triển. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, lần đầu tiên cũng đã đề cập một cách toàn diện và sâu sắc đến lĩnh vực văn hoá, từ chủ đề Đại hội đến các quan điểm, mục tiêu, định hướng lớn, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược. Văn kiện Đại hội đã nhấn mạnh một trong những quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nền văn hoá và con người Việt Nam,... kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”.

Thái Nguyên là một tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống, với những nét văn hóa đặc trưng, mang đậm dấu ấn văn hóa của người Việt, chính điều đó đã góp phần tạo cho mảnh đất này có một kho tàng văn hóa phong phú và đa dạng. Nơi đây không chỉ được biết đến là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, “Thủ đô kháng chiến” của cả nước mà còn là vùng đất đất lưu giữ nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đã tạo nên kho tàng di sản văn hóa vô cùng phong phú, đặc sắc, trở thành nguồn lực quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên. Các giá trị văn hóa tỉnh Thái Nguyên phong phú, độc đáo được hình thành và tồn tại, phát triển cùng với sự hình thành, tồn tại và phát triển của tộc người, nó là yếu tố đóng vai trò là nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh để tỉnh Thái Nguyên tiếp tục phát triển bền vững trong hiện tại và tương lai.

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.           Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, 2, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, H.2021.

2.           Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.

3.           Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.

4.           Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

5.           Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

6.           Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 33-NQ/TW tại Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, 2014.

7.           Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 03-NQ/TW tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, 1998.

8.           Giáo trình Văn hóa và Phát triển (dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), NXB. Lý luận chính trị, H.2021.

9.           PGS.TS Đào Duy Quát, Để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh cho sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong thời kỳ mới, 2021.

10.       Nguyễn Thị Thu Thủy, Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, https://tuyengiaothainguyen.org.vn/, 2021.

 



[1]   Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đạỉ biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr.76-77.

[2]  Lời phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (11-1946).

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, t.I, tr.215-216.

Tin mới hơn

Tin cũ hơn