Góp phần làm sáng tỏ luận điểm “Làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, theo những điều mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin thì thắng lợi”

Nguyễn Nam Hưng[1]

Thế kỷ XX là thế kỷ đã ghi lại nhiều biến cố thăng trầm của dân tộc Việt Nam, một dân tộc nhỏ bé vì chính nghĩa, đã dũng cảm đương đầu, chiến đấu và chiến thắng hai kẻ thù “to” trong lịch sử lúc bấy giờ chính là Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. Song cũng chính trong hoàn cảnh cam go này đã sản sinh ra cho dân tộc ta biết bao những người con ưu tú. Trong số những Người con đó, chúng ta không thể không nhắc tới Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đã suốt đời đấu tranh không biết mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người ở Việt Nam nói riêng và trên toàn thế giới nói chung.

Mặc dù đã đi xa gần nửa thế kỷ, song những tư tưởng - lý luận cách mạng, cũng như thành quả trong thực tiễn của những tư tưởng và quá trình hoạt động cách mạng của Người để lại cho dân tộc ta, cùng toàn thể nhân loại là một di sản vô cùng quý giá.

Đánh giá về ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thực tiễn cách mạng Việt Nam, đồng chí Võ Nguyên Giáp - đã từng đưa ra những nhận định vô cùng xác đáng. Đặc biệt, trong bài viết:Tư tưởng Hồ Chí Minh với quá trình trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta, trên cơ sở tổng kết lại toàn bộ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đại tướng  viết: “tôi muốn nói với đồng bào, đồng chí, đặc biệt là thế hệ trẻ một chân lý đã ăn sâu trong tâm tư và tình cảm của tôi. Chân lý ấy là: Làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, theo những điều mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin thì thắng lợi”. Những lời lẽ và nhận định, được đưa ra từ một người: “với tư cách là người mà Bác và Đảng đã trao nhiệm vụ thành lập, lãnh đạo và chỉ huy Quân đội nhân dân Việt Nam từ những ngày đầu, là một nhân chứng lịch sử, đã đi gần suốt thế kỷ XX, một thế kỷ đầy thử thách khốc liệt và thắng lợi vẻ vang đối với dân tộc ta thì chắc hẳn trong mỗi chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa về tính chân thực của nó. Nhưng tin là một chuyện, còn việc hiểu nhận định đó như thế nào thì đó là điều mà chúng ta cần phải lưu ý.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng ngời về việc kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại. Thật vậy, như chúng ta đã biết Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ thiên tài, một nhà hoạt động thực tiễn tài ba đồng thời là một nhà lý luận xuất sắc. Trong quá trình hoạt động cách mạng, mặc dù đã tiếp cận với nhiều học thuyết lý luận khác nhau, nhưng với nhãn quan của mình, Người đã khẳng định rằng: “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin[2]. Bởi vì “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui hòa bình hạnh phúc... ". Như vậy ngay từ đầu, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác bằng một niềm tin sắt đá, bởi chính Người đã thừa nhận: “luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao? Tôi vui mừng đến phát khóc lên, ngồi trong buông tối mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta[3].

          Tuy nhiên, với tâm niệm chủ nghĩa Mác là sản phẩm của việc tổng kết thực tiễn ở Châu Âu, mà Châu Âu không phải toàn thế giới nên đã tạo ra tinh thần vận dụng và kế thừa chủ nghĩa Mác một cách linh hoạt, sáng tạo ở Hồ Chí Minh. Chính vì thế, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Người đã suy nghĩ đến những hạn chế lịch sử của chủ nghĩa Mác và thấy cần được bổ sung cho phù hợp với đặc điểm phương Đông: “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xôviết đảm nhiệm[4]. Với tinh thần ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đóng góp quan trọng với lý luận chủ nghĩa Mác, sự đóng góp đó thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau:

+ Trong khi luận giải về mối quan hệ giữa cách mạng ở các nước chính quốc và các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở các nước chính quốc, nhân dân các dân tộc ở các nước thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình và cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước, không những thế cuộc đấu tranh ở các dân tộc thuộc địa còn có thể góp phần quan trọng vào thắng lợi của phong trào cách mạng ở các nước chính quốc: “ngày mà hàng trăm triệu nhân dân Châu Á… thức tỉnh… họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ các anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn[5]. Đây là một trong những cống hiến quan trọng bậc nhất vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và nhất là đối với phong trào cách mạng giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Nó không chỉ là nguồn động viên, khích lệ về mặt tinh thần, mà hơn hết, nó còn là một “đòn bẩy”, một chất xúc tác cực lớn, khơi dậy tinh thần tự lực tự cường – một trong những nhân tố cơ bản đưa đến thắng lợi cuối cùng cho các dân tộc thuộc địa. Thắng lợi cách mạng tháng 8-1945 của Việt Nam là một chứng cứ hùng hồn, đầy sức thuyết phục cho luận điểm trên của Hồ Chí Minh.

+ Khi nói về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở Việt Nam và trên cơ sở nghiên cứu tình hình thực tiễn ở Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận thấy việc ra đời của Đảng Cộng sản ở đây nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân thì chưa đủ, vì ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như chúng ta thì giai cấp công nhân còn nhỏ bé và phong trào còn non yếu, do đó phải kết hợp cả với phong trào yêu nước rộng lớn của các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Vì vậy, Đảng cộng sản Việt Nam phải là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.

+ Khi nghiên cứu thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh còn đi đến kết luận: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Bởi vì quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam là một. Chính luận điểm này đã xây dựng khối đại đoàn kết rất lớn trong toàn dân, nó đã vận động và lôi kéo được số lượng lớn quần chúng tham gia vào cuộc đấu tranh thần thánh của dân tộc, bởi ai cũng nhìn thấy lợi ích lớn lao của mình trong cuộc cách mạng đó. Trên cơ ở ấy, Người đi đến khẳng định, lực lượng cách mạng là "cả quần chúng... bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới". Quan điểm này của Người không chỉ đúng trong cách mạng giải phóng dân tộc mà còn trong sự nghiệp xây dựng đất nước ngày nay.

          + Xuất phát từ tinh thần nhân văn của chủ nghĩa nhân đạo cao cả, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương bảo vệ nền độc lập dân tộc đã giành được bằng biện pháp hoà bình, nhưng khi kẻ thù đã dùng chiến tranh xâm lược để áp đặt sự nô dịch mới, thì cần dựa vào và phát huy sức mạnh của cả dân tộc để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” Người viêt: “chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta một lần nữa. Không chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ

+ Không chỉ dừng lại ở đó, Người còn chỉ rõ để bảo vệ nền độc lập dân tộc chân chính thì cần phải xây dựng một xã hội mới là xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc để xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công và xây dựng chủ nghĩa xã hội để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc.

Như vậy, đây chính là căn cứ cho chúng ta hiểu vì sao cách mạng Việt Nam muốn đi đến thắng lợi thì nhất thiết phải đi theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi đó là một hệ tư tưởng nhất quán trước sau như một “độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Hơn nữa, tư tưởng đó lại được xây dựng nên từ những nguyên lý của chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin, và quan trọng hơn cả là vì nó được xây dựng nên từ thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam. Thực tế đã cho thấy sự lựa chọn của toàn Đảng và toàn dân ta đối với tư tưởng Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn, bởi có như thế, chúng ta mới có thể giành và giữ được một nền độc lập tự chủ và sánh vai với các cường quốc năm châu được như ngày hôm nay.

Mặt khác, theo sự căn dặn của Đại tướng thì chúng ta, nhất là thế hệ trẻ không chỉ học tư tưởng Hồ Chí Minh, mà song song với nó, chúng ta còn phải học cả những gì mà Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin. Ở nội dung này, trước hết chúng ta cần phải học tinh thần tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo cho phù hợp với tình hình thực tiễn thường xuyên vận động và phát triển không ngừng. Muốn thế thì mỗi chúng ta phải tự rèn luyện cho mình phương pháp làm việc và tư duy biện chúng, luôn chung thành với nguyên tắc thống nhất lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành…

Cuối cùng, như chúng ta đã biết, hiện nay nhiều thế lực thù địch vẫn có ý đồ chống phá cách mạng nước ta trên tất cả các lĩnh vực của đời sống với chiêu bài diễn biến hòa bình và bạo loạn lật đổ. Đặc biệt, trong thời gian qua, chúng còn mở cả một mặt trận mới  nhằm vào lĩnh vực văn hóa, tư tưởng. Một trong những điểm trọng tâm mà chúng nhằm vào trong “mặt trận mới” này đó là tư tưởng và hình ảnh của Hồ Chí Minh trong tâm thức của người dân Việt Nam. Theo chúng thì nếu muốn lật đổ chính quyền và làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa của cách mạng Việt Nam thì công việc đầu tiên và cũng là cuối cùng mà chúng phải làm là xuyên tạc, bóp méo tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó làm cho lòng dân dao động và mất lòng tin đối với Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, dường như ở đây Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang muốn ngầm đặt ra vấn đề là đến những thế lực phản động cũng còn nhận thấy được vị trí và vai trò quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, vậy thì tại sao chúng ta – những người đang nguyện “lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động” lại không nhận ra được điều đó.

Như vậy, chúng ta thấy tư tưởng Hồ Chí Minh là hết sức đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam cả trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Nhưng bản thân tư tưởng đó-tự nó không thể bộc lộ và phát huy giá trị cũng như sức mạnh của mình được, mà còn cần phải có sự trung thành, kế thừa và phát triển của chúng ta với tinh thần DĨ BẤT BIẾN ỨNG VẠN BIẾN như sinh thời Người đã từng dạy.

 

         



[1] Giảng viên Lý luận Chính trị – Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên.

[2] Trích: Tập trích tác phẩm kinh điển Hồ Chí Minh, trang 17.

[3] Trích: Tập trích tác phẩm kinh điển Hồ Chí Minh, trang 142.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, tập 1, trang 466.

[5] Trích: Tập trích tác phẩm kinh điển Hồ Chí Minh, trang 5.

Tin mới hơn

Tin cũ hơn